Các thuốc quan trọng thường dùng phòng bệnh Etiotropia cho lợn ( phần 2)
Các chất hoạt động bề mặt (chất điện hoạt)
Các chất hoạt động bề mặt được chia làm hai nhóm:
Nhóm các chất hoạt động bề mặt có phân cực và nhóm các chất hoạt động bề mật không phân cực.
a) Các chất hoạt động bề mặt có phân cực
Bao gồm các chất có khối lượng phân tử trên 200. Tan trong nước và có tác dụng làm giảm sức căng bề mặt. Được sử dụng rộng rãi trong đời sống hằng ngày, trong Thú y và Y học. Do tác dụng làm giảm sức căng bề mặt nên tại nơi các chất này tiếp xúc (ví dụ: da), các chất bẩn sẽ bị phân cắt thành những tiểu phần rất nhỏ, không bám dính vào da, được tẩm ướt rồi được tẩy sạch bởi nước dội rửa.
Mặt khác, trên bề mặt được tiếp xúc với thuốc, các tiểu phần của chất bẩn, của vi khuẩn,... cũng được trao đổi thế hiệu điện với thuốc và chúng cũng đầy nhau (hoặc kéo nhau) ra khỏi nơi bám.
Do vậy, người ta còn gọi các chất này là "chất tẩy rửa".
Các chất tẩy rửa là các chất lưỡng cực. Trong phân tử của nó vừa có cực ưa nước (Polarus) bị kéo bởi phân tử nước, vừa có cực kỵ nước (Apolarus) bị kẻo bởi Lipid. Tuỳ theo dấu của cực ưa nước, người ta chia ra: các chất tẩy rửa Anionic mang điện âm và các chất tẩy rửa Cationic mang điện dương.
+ Các chất tẩy rửa Anionic
Đặc trưng của các hợp chất nhóm này là sự kết hợp giữa các sản phẩm acid béo (anion) với thành phần tây và tạo bọt. Gồm các chế phẩm: xà phòng và các Sulfat - rượu béo.
Xà phòng:
+ Đây là các muối của Natri hoặc Kali với các acid béo như là Pamitic, Stearic và Oleic.
Xà phòng Kali mềm, "xốp" và nếu không tinh chế tốt, ngoài Glycerin dư thừa ra, còn chứa nhiều KOH, hoặc K2CO3. Do đó có tính kiềm mạnh.
Xà phòng Natri rắn hơn, các chất dư thừa trong công nghệ chế tạo dễ tách bỏ hơn.
Các loại xà phòng này rất thông dụng trong đời sống hằng ngày và trong Y học, Thú y,...
pH của chúng thường là 9,5 – 10. Chúng tẩy rửa tốt các chất bẩn và đồng thời cùng tẩy rửa cả các vi khuẩn trên đó.
Không sử dụng xà phòng Kali trong thời gian lâu trên da vì có thể gây các vết ban đỏ, thậm chí làm tổn thương cả tổ chức liên kết dưới da. Uống nhầm, gây nôn. Tiêm nhầm, làm dung huyết (phá vỡ hồng cầu).
Xà phòng có thể là xà phòng trung tính, acid, kiêm và xà phòng béo (tuỳ theo công nghệ chế tạo và mục đích sử dụng).
Trong các xà phòng acid có dư thừa acid béo. Loại này dùng để chế tạo các loại "xà phòng điều trị khác nhau.
Xà phòng phối hợp với các thuốc điều trị ngoại ký sinh trùng trên da, có khả năng giúp thuốc diệt ký sinh trùng thấm sâu xuống các lớp dưới da và tích luỹ ở đó. Ký sinh trùng chích hút thức ăn sẽ hút cả thuốc và chết. Xà phòng Kali rất thích hợp cho việc chế tạo loại "xà phòng dược phẩm" này.
Như trên đã nói, các loại xà phòng mêm, có thể gây nôn cho động vật, đặc biệt với các loại hay nôn, dễ nôn như chó, mèo, lợn, chúng sẽ không chịu đựng được với các thuốc có dùng xà phòng mềm làm dung môi.
+ Các chế phẩm:
Sapo Stearini: là xà phòng Natri, chất lượng tốt, được chế tạo từ acid Stearic và Na2CO3.
Sapa Kalinus: là xà phòng mềm, màu vàng nhạt. Chế tạo từ acid Oleic và KOH. Spiritus Saponatus: có 8 – 10% xà phòng Natri trong cồn 80% (80 độ).
Trong môi trường acid, trong nước nặng (có nhiều Ca, Mg) các xà phòng Anionic bị tủa và mất hết tác dụng.
Các Sulfat - rượu béo: Là các muối của các Este tạo ra bởi acid Sulfuric và rượu béo, có tác dụng tẩy rửa tốt. lon Canxi (Ca) và các chất có tính acid không làm giảm tác dụng.
Các bột giặt, tẩy không có xà phòng: các chế phẩm tạo hương thơm khi giặt, được sử dụng các dạng Sulfat - rượu béo này.
Trong thực hành điều trị thú y, sử dụng rất rộng rãi để sản xuất các chế phẩm diệt ngoại ký sinh trùng (Insecticid). Sản phẩm thông dụng nhất là: Natrium - laurisulfat, Natrium - Cetylstearil - Sulfat và Natrium - Dioctylsulfo - Succinat.
• Các chất tẩy rửa Cationic (còn gọi là các xà phòng invert)
Là các muối Ammonium bậc 4. Thành phần có tác dụng tẩy rửa là các Cation (các gốc Ammonium). Xà phòng loại Cationic có thể sử dụng cả trong môi trường acid.
Không trộn dùng chung 2 loại xà phòng Anionic và Cationic vì chúng sẽ tác dụng với nhau thành một hợp chất không còn tác dụng tẩy rửa.
Xà phòng Cationic phá huỷ các enzim; đồng thời cũng có tác động lên cả các Protein của tế bào vi khuẩn, làm phá huỷ cấu trúc của chúng, làm tăng thế hiệu màng và cuối cùng vi khuẩn chết.
Pha loãng ở nồng độ 1: 50.000 trở lên, chỉ có tác dụng kim khuẩn, nhưng nông độ đậm đặc hơn, chúng sẽ diệt khuẩn, chủ yếu là Gr (+). Có tác dụng diệt nấm (ví dụ: Candida Allbicans). Không có tác dụng với nha bào. ít tác dụng với virus.
Protein, mủ, tổ chức chết, làm giảm tác dụng của các Cationic. Tuy vậy người ta vẫn có thể dùng để sát trùng các vết thương, vết bỏng (sau khi đã rửa sạch các chất bẩn).
Các chế phẩm thường dùng:
+ Benzalconium Clorid (Benzalkonium Chloratum): Là bột hoặc dạng hạt Zelatin, màu vàng trắng. Tan tốt trong nước, cổn, aceton. Dung dịch 0,2% trong cồn, dùng sát trùng vùng mổ. Dung dịch đậm đặc hơn trong nước, dùng sát trùng tay; trong dạng Cream, Pommad dùng bôi sát trùng bàn tay, cánh tay khi khám trực tràng, khám tử cung, âm đạo,...
Thuốc tạo thành một lớp màng mỏng" trên da, có tác dụng sát trùng tốt. Tuy vậy, các vi khuẩn gây bệnh vẫn có thể ẩn náu dưới lớp màng đó.
+ Cetil = Piridinium Clorid (Cetylpiridinium Chloratum): Là chất dạng xà phòng, màu vàng trắng.
Độ hoà tan tương tự như Benzalconium Clorid.
Dung dịch 0,1 - 1% dùng điều trị các vết thương, vết bỏng trên da, còn có thể dùng khử trùng các dụng cụ Thú y.
Để đề phòng hiện tượng mang khuân (mang trùng), làm chóng khô dụng cụ thú y, người ta cho thêm Natrinitrit 0,5% vào dung dịch xà phòng Cationic.
Nồng độ 2 - 3% dùng khử trùng máng ăn, máng uống.
+ Bradophen (Bradomast, Bradobad, Bradoman): Tinh thể không màu, không mùi. Tan tốt trong nước và trong các dung môi hữu cơ. Đây là hợp chất Ammonium phân cực với một chuỗi Carbon rất dài và 2 nhóm Hydroxyl (Benzyldodecil - /bis - 2 - hydroxyetyl/ – Ammonium clorid).
Phố tác dụng rộng với nhiều loại vi sinh vật: vi khuẩn Gr (+), Gr (-), các nấm, nấm men và nhiều loại virus. Thuốc ít độc.
Dung dịch thuốc không gây kích thích da và niêm mạc. Nhiệt độ tăng sẽ làm tăng tác dụng diệt khuẩn.
Dung dịch 0,1 – 1% để khử trùng cục bộ, các dụng cụ thú y - chăn nuôi. Dung dịch 0,02 – 0,2% sát trùng tay, bầu vú; 0,01% sát trùng trứng gia cầm.
+ Các chất lưỡng cực chất điện hoạt lưỡng cực, chất tẩy rửa lưỡng cực) Là các hợp chất có chứa Dodecil - Di(aminoetyl) - Glycin.
Do có mang 2 điện tích trái dấu nên phố sát khuẩn của chúng rộng hơn các loại xà phòng khác.
Trong dung dịch, phân ly ra các ion, giống như các xà phòng và các Ammonium bậc 4. Tác dụng chung là tẩy rửa.
b) Các chất điện hoạt không phân cực
Không có tác dụng diệt khuẩn, nhưng có tác dụng tẩy rửa và do đó tẩy rửa luôn cả các vi sinh vật. Ví dụ: Tweeen, Span,...
Khi dùng phối hợp với các chất loại Cationic không những không trung hoà lẫn nhau mà trái lại, làm tăng tác dụng lên.
Chất thường dùng nhất trong nhóm này là Alkil - Fenol - Polyglycol Ete. Dùng làm dung môi hoà tan các chất sát khuẩn. Thường phối hợp với các loại xà phòng nói trên để tăng hiệu quả tẩy rửa và sát trùng, tăng hiệu quả khử mùi.
2.6.7. Phenol và các dẫn xuất (acid Carbolic)
Là chất kết tinh có mùi đặc trưng, màu trắng hoặc hơi hồng.
Phối trộn với nước ở nồng độ 10%: Tác dụng tốt với vi khuẩn, nấm: nhưng không diệt được nha bào.
Tác dụng vào tế bào chất: Nồng độ trên 1% làm đông vón Protein.
Là chất hoà tan trong Lipid nên có thể thấm qua màng tế bào một cách dễ dàng và làm tăng tác dụng diệt tế bào.
Trên da, niêm mạc, tại các vết loét, thuốc được hấp thu tốt. Mù, huyết tương. các tổ chức chết, phân và các chất hữu cơ khác làm giảm tác dụng của Phenol.
Do có độc với cơ thể nên ngày nay ít dùng, chỉ còn ý nghĩa, giá trị lịch sử.
Người ta đã chế tạo các chế phẩm khác, có tác dụng diệt khuẩn mạnh hơn, phổ tác dụng rộng hơn. Đó là Cresol và Timol. Kết hợp sử dụng 2 chất này (hỗn hợp) càng làm tăng tác dụng diệt khuẩn.
a) Cresol (Cresolum)
Tác dụng đặc tương tự như Phenol; nhưng tác dụng diệt khuẩn thì mạnh gấp 3 lần.
Cresol "thô" tối thiểu chứa 50% Metacresol. It tan trong nước, có thể dùng tây ué cục bộ. Để cải thiện tính hoà tan trong nước, người ta phối hợp Cresol với các loại xà phòng. Chế phẩm có tên Liquor Cresoli Saponatus, chứa 50% Cresol. Dung địch Cresol 1% dùng rửa tay, 5% dùng khử trùng dụng cụ
b) Timol (Thymolum)
Timol (Isopropycresol) tác dụng 25 lần mạnh hơn Cresol, lại ít độc hơn. Khó tan trong nước. Nồng độ 30% trong nước đã ức chế vi khuẩn. Trong các phòng thí nghiệm, người ta sử dụng để xử lý đồ hộp. Dung dịch 5% trong cồn dùng sát trùng da. 2.6.8. Các acid và kiềm
a) Các acid vô cơ
Do tác dụng tàn phá mạnh các tổ chức, tế bào nên không sử dụng các acid vô cơ làm thuốc sát khuẩn, ngoại trừ acid Phosphoric. Chủ yếu là dùng dung dịch Superphosphat 10% (có chứa Canxi - Tetrahydro - Phosphat) có tính acid để sát trùng những nơi có ô nhiễm virus lở mồm long móng (như đồng cỏ, các khu vực sản xuất thức ăn gia súc,...).
Các dung dịch acid có pH < 4 đều có tác dụng diệt virus. Cũng còn sử dụng HCl để khử trùng xương, da khi có nghi vấn bị nhiễm các nha bảo nhiệt thán
b) Các acid hữu
Acid Lactic, acid Axetic, acid Butyric,... đều có tác dụng sát khuẩn. Trong đó acid Lactic có vai trò quan trọng hơn trong việc sử dụng diệt khuẩn các sản phẩm động vật khi có dịch lở mồm long móng.
Acid Butyric, acid Propyonic dùng bảo quản ngũ cốc làm thức ăn gia súc, gia cầm. Acid Salicylic được dùng trong điều trị các bệnh trên da vật nuôi. Muối Na - và các Este Metyl – hay Propyl - của acid p – Oxybenzoic được dùng trong bảo chế dược khoa (bảo quản các dược phẩm không bị nhiễm khuẩn).
c) Các chất kiềm
Các dung dịch kiềm có pH từ 11 - 13 đều có tác dụng sát khuẩn, nhưng cũng gây hoại từ, tàn phá các tổ chức khi quan cơ thể nặng nề.
Nhiệt độ tăng, tác dụng sát khuẩn của các dung dịch kiềm tăng.
Thường dùng phối hợp các chất kiềm với các thuốc Hypoclorid, Silicat, Formalin để khử trùng, tiêu độc.
2.6.9. Thuỷ ngân và các chế phẩm
Những năm gần đây, ít sử dụng trong thú y. Tuy vậy, để tiêu diệt các nấm gây bệnh, các dẫn xuất thuỷ ngân vẫn có giá trị tốt (như các Oxyd các Sulfit thuỷ ngân).
Có các chế phẩm: Thiomesalum, Phenylhydragyrum Boricum, Phenyl mercurri nitratum,...
2.6.10. Các chất màu (các phẩm nhuộm)
Nói chung, ngày nay ít sử dụng làm thuốc sát khuẩn.
Có các thuốc: Tím Gencian, Fuchsin, lục Malachit, xanh Metylen,... thuộc nhóm các phẩm nhuộm Trifenyl.
Bên cạnh đó, còn có nhóm các dẫn xuất Acridin. Gồm Xantacridin (Acriflavinium Chloratum) và một số chất khác.
Nhóm các chất màu Azot, như đỏ Tripan, Xanh Tripan.
2 nhóm sau (Acridin và Azot) gần đây được xếp vào các thuốc hoá học trị liệu (Kemoterapeuticum). Vì chúng được dùng điều trị một số ký sinh trùng đường máu như Trypanosoma.
Các thuốc quan trọng thường dùng
2.6.1. Clo và các chế phẩm
a) Clo nguyên tử Ở thể khí, nặng hơn không khí, tan trong nước. Là chất оху hoá mạnh. Liều cao có tác dụng diệt khuẩn. Có ảnh hưởng xấu đến dụng cụ, bông vải,...
Clo chi tác dụng diệt khuẩn ở điều kiện môi trường ẩm. Khi này, Clo kết hợp với nước, tạo thành acid Hypocloric và chất này diệt khuẩn.
Cl2 + H2O = HCI + HOCI
HOCI → HCI + O
Oxy nguyên tử cũng có tác dụng diệt khuẩn, khử mùi.
Clo tự do với tỷ lệ 1/triệu (pha loãng) dùng để khử trùng nước uống. Sau 30 phút có tác dụng mong muốn. Dùng dung dịch Natrium thiosulfat khử mùi Clo còn tồn đọng trong nước.
b) Nước Clo Là dung dịch nước bão hoà Clo. Nay chỉ còn dùng it trong y học, thú y. c) Acid Hypocloric và muối của nó là Hypoclorid
Là những hợp chất diệt khuẩn mạnh. Thuốc làm dụng giải mạnh Protein của mảng vi khuẩn: Các phân tử Hypoclorid gắn vào các nhóm Amin của Protein, tạo thành Cloramin (Cloramin - Protein), dễ hoà tan.
Hypoclorid cũng làm dung giải các tổ chức chết của cơ thể (tổ chức hoại từ, máu, mủ,...). Do đó với nồng độ thích hợp, vừa diệt khuẩn, vừa khử mùi hôi thối, vừa giúp các vết thương hoại tử mau lảnh phục.
d) Natrium Hypoclorid (HIPO)
Là dung dịch màu vàng - trắng, mùi Clo mạnh. Chứa 4 – 5% Clo hoạt động và 1,6 – 2% NaOH, có tác dụng sát khuẩn rất mạnh. Pha loãng 2 - 5%, dùng khử trùng máng ăn, các dụng cụ chăn nuôi, chuồng nuôi, thùng ong, ong và các chất thải của vật nuôi,..
Với nha bào, phải có nồng độ cao (20%) mới đảm bảo diệt tốt. Không có tác dụng diệt nấm và ký sinh trùng.
Các Alcali silicat làm giảm tác dụng của thuốc. Với các chất khử (như Formalin) có thể gây nổ. Do đó phải bảo quản cách lý nghiêm ngặt.
Nhiệt và ánh sáng phân huỷ thuốc.
e) Canxi Hypoclorid (Calcaria Chlorata)
Là chất khử trùng dạng bột, dễ hút ẩm. Chứa 30 – 35% Canxi Hypoclocid. Có thể giải phóng khí Clo tới 28 – 30%. Trong thời gian bảo quản, thuốc cũng dần dần bị phân huỷ, hết tác dụng.
Đây là một thuốc có giá thành vào loại rẻ nhất nhưng lại diệt khuẩn rất mạnh. Trong thực tế, pha loãng 1/3 – 1/20 để khử trùng máng ăn, máng uống, tường nhà chăn nuôi, nền chuồng.
Chú ý: Sau khi xử lý thuốc ở sàn chuồng, vật dụng bằng gỗ,... phải để ra gió (hoặc quạt gió) trước khi dùng lại cho vật nuôi.
-Có một chế phẩm khác, gồm 80% Canxi Hypoclorid và 20% Natri Carbonat cũng được dùng làm thuốc khử trùng rất tốt. Dùng pha loãng thành dung dịch 3% để sử dụng. Có giá thành rẻ, thấp.
- Bên cạnh các loại Hypoclorid, còn hay dùng các loại Cloramin. Các thuốc này ở trong nước và trong dịch tổ chức sẽ phân ly ra NaOCl, tiếp đó giải phóng Clor, diệt khuẩn.
Trong các Cloramin, thực tế hay sử dụng nhất là Cloramin B và Cloramin T. + Cloramin B (Chlorogenium, Neomagnol):
Dạng tinh thể, dễ tan trong nước, màu trắng. Sử dụng thuốc ở dạng bột hoặc viên nén. Về hoá học có tên Benzolsulfon - Cloramid – Natrium.
Trong dung dịch nước, Cloramin B cũng tương tự như Natrium Hypoclorid. Axit hoá sẽ giải phóng 26 - 29% Clo hoạt động.
Thuốc diệt tốt các loại vi khuẩn, virus, nồng độ cao diệt nha bào. Không có tác dụng diệt nấm và ký sinh trùng.
Dùng dung dịch 1- 2% sát trùng tay (khi kiểm tra lâm sàng các đàn vật nuôi) Tửa các vết thương gia súc, gia cầm).
Dùng 0,05 – 0,1% sát trùng bàng quang, ống dẫn niệu, xoang ngực, xoang bụng, tử cung (bơm, tưới thuốc vào).
Cloramin B ổn định hơn, bền vững hơn Canxi Hypoclorid. Có thể hấp thu từ vết thương, nhưng với nồng độ nói trên, không gây độc cho cơ thể vật nuôi.
Cloramin T: Về mặt hoá học, có tên là p - Toluol -Sulfon -Cloramit – Natrium
Chứa 20 – 25% Clo hoạt động. Hoạt phố sát khuẩn và cơ chế tác dụng tương tự như Cloramin B
- Trong thực hành thú y còn dùng phổ biến một số thuốc khác có chứa Clo phân tử; nhưng không giải phóng Clo hay Hypoclorid như Cloramin. Đó là HexaClorofen và Clorhexidin.
Hexa Clorofen (Hexa Clorophenum, Ritocept) Là chất dạng tinh thể, gần như không có mùi. Không tan trong nước, nhưng tan tốt trong cồn và dung dịch Alcali – hydroxyd.
Danh pháp hoá học: 2 – 2' Metylen – Bis (3 – 4 – 6 – Tricor) -Phenol.
Thường dùng dung dịch 1 – 3% trong xà phòng, hoặc trong hỗn hợp nước với chất béo để sát trùng tay.
Tác dụng tốt với vi khuẩn Gr (+); tác dụng kém hơn với Gr (-). Ít tác dụng với vi khuẩn kháng toan, nha bào, nấm, virus.
g) Clorhexidin (Biotensid, Supersept) Thường dùng 2 dạng: Clorhexidin - digluconat:
Clorhexidin - HCI. Tác dụng tốt với cả vi khuẩn Gr (+). Gr (-).
Mù, tổ chức chết, huyết tương,... không làm ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc.
Sát trùng tay, dùng dung dịch 0,51% (Trước khi làm phẫu thuật Thú y hoặc sau khi tiếp xúc với các đàn vật nuôi bệnh).
Rửa vết thương dùng 0,0002 – 0,0005%.
Trong công nghiệp chế biến sữa, dùng 0,02 – 0,2% để xử lý sữa và dung dịch 0,02% để khử trùng các dụng cụ vắt sữa (máy vắt sữa). 2.6.2. Các chế phẩm chứa Iod
lod là chất ở dạng tinh thể, ánh kim loại. It tan trong nước (1/500), tan nhiều trong cồn, Ete, Cloroform và dung dịch logur Kali.
lod vừa có tính oxy hoá, vừa có phản ứng thế với các chất hữu cơ, các chất phẩm màu. Làm ảnh hưởng xấu đến các dụng cụ và thiết bị kim loại.
Dung dịch loc diệt các vi sinh vật trên bề mặt da. Trên các vết thương mới, thuốc làm đau rát, "cháy", sau đó giết chết các tế bào (cả tế bào vi sinh vật). Nồng độ lod càng cao, tác dụng sát khuẩn càng mạnh, tổ chức cơ thể bị chết cũng càng nghiêm trọng. Nếu tiêm dung dịch cồn lod hoặc dung dịch lodur Kali – led vào lớp sâu dưới da, nơi đây sẽ bị viêm, sau đó tổ chức nơi tiêm bị chết, cuối cùng thì các bạch cầu sẽ thu dọn các tổ chức chết đó.
a) Cồn lod
Là dung dịch gồm 5% lod, 4% lodur Kali hoà tan trong cồn 80%. IK giúp hoà tan lod; đồng thời nó hạn chế sự hình thành các muối lodạt và acid lod Hydrogenic (chất này có tác dụng kích thích rất mạnh tổ chức cơ thể). Không sử dụng trực tiếp lên niêm mạc, ngoại trừ trường hợp bị bệnh nấm Actinomycosis ở lưỡi trâu, bò,
Thường dùng cồn lod để sát trùng da trước khi tiêm hay trước khi làm phẫu thuật ở gia súc.
b) Dung dịch Lugol
Hoà tan lod trong dung dịch chứa nước lodur Kali. Tỷ lệ giữa I, IK và nước thường thay đổi, tuỳ theo mục đích sử dụng và cũng được viết khác nhau trong các tài liệu chuyển khảo. Trong Thú y, dùng để diệt một số ký sinh trùng đường hô hấp, bệnh sản khoa (viêm tử cung). Đặc biệt có thể dùng để tiêu diệt một số vi trùng gây bệnh thối ấu trùng ong mật (thối ấu trùng châu Âu - theo nghiên cứu của trường ĐHNNI-1982).
c) Các lodofor
Đây là các chế phẩm hỗn hợp, các polyme (Polyvinyl - Pyrrolidon) có chứa lod, có tác dụng diệt khuẩn trên bề mặt, có tác dụng tẩy rửa. Tan tốt trong nước.
Các chất kiềm, xà phòng làm mất tác dụng sát trùng. Ngược lại, các chất axit (pH = 3,0 – 4,0 là tốt nhất) làm tăng tác dụng. Nhiệt độ > 35°C làm mất tác dụng (thuốc bị phân huỷ); vì vậy khi pha chế, không được dùng nước có nhiệt độ cao. Dung dịch lodofor đã pha, bị phân huỷ ở nhiệt độ phòng. Ánh sáng làm phân huỷ thuốc nhanh. Vì vậy luôn luôn phải sử dụng thuốc mới pha chế và dùng ngay.
lodofor tác dụng diệt tốt và nhanh các virus, vi khuẩn, nấm, nhiều đơn bào,... ít dùng với nha bảo.
Riêng các loại virus: lodofor tác dụng kém với Adenovirus. Dùng khử trùng tiêu độc: cục bộ, phần và chất thải, các máy móc, thiết bị, dụng cụ chăn nuôi,..
Chú ý: Iod có thể kết hợp với một số loại Protein (nhất là với Casein) tạo thành các chất có hoạt tính tuyến giáp. Do đó sau khi khử trùng dụng cụ, thiết bị, ta phải rửa lại bằng nước sạch, tránh để chúng nhiễm vào các sản phẩm chăn nuôi. 2.6.3. Aldehyd
Trong nhóm này, có nhiều chất có tác dụng khử trùng mạnh, phổ tác dụng rộng. Trong sản xuất, thường dùng nhất là Formaldehyd và Glutaradehyd.
a) Formaldehyd
Là chất ở thể khí, không màu, kích ứng mạnh, mùi cay hác.
Dung dịch nước có chứa 40% khi Formaldehyd, được gọi là Formalin (Formaldehydum Solutum). Từ dung dịch Formalin, khí Formaldehyd được giải phóng với sự giúp đỡ của các chất oxy hoá (ví dụ: Kalium Permanganat). Có thể phối hợp Formalin với các xà phòng loại Anion hoạt động, nhưng khi phối hợp với Natrium Hipoclorid sẽ gây nổ, cháy. Cần đề phòng.
Formaldehyd là chất khử mạnh, diệt vi khuẩn, virus, nấm. Không có tác dụng với ký sinh trùng. Gây kích ứng rất mạnh với da và niêm mạc.
Trong thực hành thú y, có thể dùng dạng dung dịch Formalin hoặc dạng hơi Formaldehyd. Ở dạng hơi, tác dụng tốt, nếu độ ẩm của không khi đạt 80 – 90% và nhiệt độ tối thiểu 20°C. Nồng độ khí (hơi) Formaldehyd phải đạt 0,1% thể tích, Dạng dung dịch dùng khử trùng cục bộ, nhân và chất thải (lỏng) cần có nồng độ 1 - 5%. Khử trùng trứng, nồng độ 10mg/lít, khử trùng bàn chân (trâu, bò bị thối móng) 1 – 5%, khử nấm (Actinomycoma) phải dùng 5 – 10% mới có kết quả.
Hỗn hợp Formaldehyd - xà phòng (Formaldehydum Saponatus):
Là dung dịch màu vàng nhạt, có chứa Formaldehyd, cồn, xà phòng và dầu thơm. Trong đó Formaldehyd khoảng 15%. Còn và nước có thể trộn theo tỷ lệ bất kỳ.Dùng sát trùng tay, vết thương và dụng cụ Thú y (lần lượt theo nồng độ 3%; 0,5% và 5% họà trong nước).
Hỗn hợp Formalin và thuốc tím: Có thể sử dụng phối hợp Formalin với KMnO, để giải phóng hơi Formaldehyd theo tỷ lệ sau:
100ml Formalin + 6g KMnO4, Phương pháp này được áp dụng để khử trùng không khí, nền, trần, tường nhà chăn nuôi, kho vật dụng, máy ấp trứng,...
Cách làm: Dùng chậu sành (sứ) dày, đặt ở giữa nền chuồng, cho Formalin vào trước, tiếp đó cho KMnO,. Phản ứng sinh nhiệt cao. Hơi Formaldehyd sẽ bốc lên, lan toả khắp nhà. Phải đóng kín cửa từ 10 – 12 giờ để tác dụng khử trùng được triệt đề. Sau thời gian trên, mở cửa cho thông thoáng hết mùi Formaldehyd rồi mới nhập gia súc gia cầm) vào nuôi hoặc cho đợt trứng mới vào ấp.
b) Glutaraldehyd
Là hợp chất có mùi đặc trưng, màu vàng nhạt, tan bất kỳ tỷ lệ nào trong nước. Glutaraldehyd so với Formaldehyd về mặt hoá học, nó chứa 2 nhóm Aldehyd hoạt động. Dung dịch có tính acid nhẹ. Nhưng nếu độ pH xuống đến 3 – 4 thì hết tác dụng sát khuẩn.
Nếu kiểm hoá nhẹ bởi NaHCO, để có pH = 7,5 – 8,5 thì lại có tác dụng sát khuấn trở lại.
Thuốc tác dụng tốt với cả vi khuẩn Gr (+) và Gr (-), với các vi khuẩn kháng toan, nha bào, nấm và virus. Không tác dụng với ký sinh trùng. Thời gian diệt vị khuẩn và virus cần 30 phút, diệt nha bào cần 3 giờ.
Ưu điểm của Glutaraldehyd là không làm hỏng các vật dụng bằng kim loại, cao su, chất dẻo, sơn.
Các loại xà phòng, các chất tẩy rửa, không làm mất tác dụng của thuốc này.
Kích thích nhẹ da, nhưng kích thích mạnh niêm mạc; do đó nếu thuốc trực tiếp tiếp xúc với niêm mạc sẽ làm tổn thương niêm mạc.
Ứng dụng thực tế: dùng khử trùng các dụng cụ Thú y không chịu nhiệt. Do thuốc có gây kích ứng da nên phải dùng găng tay cao su để tránh tổn hại cho bàn tay.
2.6.4. Các thuốc oxy hoá
Là những thuốc khi sử dụng sẽ giải phóng oxy nguyên tử. Có tác dụng oxy hoá làm biến đổi chức năng sinh học của các enzim.
a) Hydrogen perocid (H2O2)
Là chất dễ bay hơi, tan rất tốt trong nước. Khi dung dịch H2O2, nồng độ cao tiếp xúc với da, sẽ làm phồng rộp da, thành các nốt nhỏ trong chứa khí. Dung dịch đậm đặc bán trên thị trường có chứa 27 - 32% H2O2
Là thuốc sát trùng rất tốt. Trong tất cả mọi tế bào ta đều gặp enzim Catalase. Enzim này dưới tác động của H2O2, sẽ bị phân huỷ.
Ở các vết thương sâu, có tổ chức hoại tử nhiều, H2O2, sẽ tạo các bọt khí , và giúp cho việc loại thải các tổ chức chết, máu mủ hoặc các chất bẩn khác một cách dễ dàng, thuận lợi.
Khi sát trùng bằng H2O2, đồng thời với tác dụng sát trùng, tách bỏ tổ chức chết, H2O2, cũng biến đổi thành các chất không độc hại, đó là nước và оху.
Thường dùng dung dịch H2O2, nồng độ 3% để sát trùng miệng, vết thương. Nồng độ cao hơn có thể làm ngừng xuất huyết ở tổ chức nhu mô.
b) Carbamid - Hydrogen perocid (Hyperol)
Là hỗn hợp gồm H2O2, và Carbamid 33-36% (NH2CONH2 – H2O2). Tan tốt trong nước và cồn. Thuốc vừa oxy hoá, vừa khử mạnh. Công dụng và cách dùng tương tự như H2O2.
c) Thuốc tím: Kalium permanganat (KMnO4)
Là thuốc oxy hoá mạnh. Khi tiếp xúc với da và niêm mạc, sẽ nhuộm da và niêm mạc thành màu nâu vì MnO, được hình thành. Ôxy được giải phóng từ từ sẽ gắn với các chất hữu cơ. Thuốc vừa sát trùng, vừa khử mùi hôi thối. Nồng độ thuốc tuỳ thuộc yêu cầu sát trùng mà quyết định đặc hay loãng.
Trong thực tế, thường dùng dung dịch 0,02 - 0,1% để sát trùng miệng: 0,2 – 0,5% rửa vết thương thối bẩn (vừa sát trùng vừa khử mùi).
KmnO4, còn là thuốc đối kháng khi ngộ độc Phospho và Cyan (ở nồng độ 0,01%).
Phối hợp với acid Boric làm tăng tác dụng sát trùng và không gây kích ứng tổ chức. 2.6.5. Các loại cồn
Tác dụng diệt khuẩn. Nồng độ càng cao, tác dụng càng mạnh.
Thường dùng nhất là Etanol (Etilalcohol), ngoài ra còn dùng các loại Propylalcohol, Isopropylalcohol.
Thường dùng, cồn 70 – 80% sát trùng tay, da. Dùng cồn 90 – 96% để đốt, tiệt trùng các dụng cụ kim loại (dao, pince, kéo,...). Còn tác dụng tốt với vi khuẩn đang sinh trường, nhưng không tác dụng với nha bào.
Các loại Glycol như Etylen glycol, Propylenglycol, Trietylenglycol,... được dùng khử trùng không khí. Tác dụng diệt khuẩn, diệt nấm; ít độc với vật chủ.
Trietylenglycol có tác dụng tốt nhất. Nồng độ 0,005mg/lít, đảm bảo độ ẩm 40% thích hợp nhất. Không khí khô hoặc quá ẩm đều làm mất tác dụng của thuốc