Xây bè nuôi cá tra và cá basa
XÂY DỰNG BÈ
Hiện nay hình thức nuôi cá bè được tập trung nhiều ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, chủ yếu là hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Chất lượng nước và dòng chảy sông Cửu Long là điều kiện thuận lợi để nuôi cá tra và cá basa trong bè.
A. BÈ NUÔI CÁ TRA VÀ CÁ BASA
Bè nuôi cá tra và cá basa được chia thành hai loại chính: bè tạm thời và bè kiên cố. Bè tạm thời thường là bé nhỏ, được đóng bằng tre hoặc bằng gỗ xấu chịu nước kém, thời hạn sử dụng ngắn.
Bè kiên cố thường là những bè cỡ trung và cỡ lớn, được đóng bằng gỗ tốt như sao, vến vến, căm xe, chò chỉ, dầu. Loại bè này chịu đựng nước rất tốt, sử dụng khá bền, có khi tới 50 năm.
Ngoài bè bằng gỗ, một số người còn làm bè bằng các vật liệu khác như ximăng, lưới thép. Các vật liệu này rẻ tiền hơn rất nhiều so với các loại gỗ tốt, do đó phù hợp với những người ít vốn.
Loại bè lớn thường được thiết kế theo dạng hình chữ nhật, ngoại trừ một số ít bè cỡ nhỏ dùng để ương cá giống thì được thiết kế theo dạng hình vuông. Bà dạng hình chữ nhật có ưu điểm là dễ chọn gỗ để thiết kế, thuận tiện cho việc quản lý và sử dụng như làm nhà trên bè, sắp xếp nơi chế biến thức ăn, nhà kho.
Đầu tư cho một bè nuôi cá khá tốn kém, nhất là với loại bè kiên cố. Tùy vào mục đích sử dụng và điều kiện tài chính mà người nuôi quyết định đóng bè cỡ lớn hay cỡ nhỏ. Bé kiên cố có nhiều kích cỡ khác nhau, cỡ nhỏ khoảng 100m, cỡ trung bình từ 100 - 500m3, cỡ lớn có thể tới hàng ngàn m3.
Bè nuôi cá tra và cá basa ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu là loại bè cỡ lớn, kích thước từ 500 - 1.000m3; bè vừa để nuôi cá vừa là nhà ở (xem thêm bảng sau).
B. CÁCH LÀM BÈ
I. Cấu tạo bè
Bè gồm có các bộ phận chính sau:
1. Khung bè: Gồm có trụ đứng, đà dọc, đà ngang và cây xiên tả (cây chéo góc). Khung bè được làm bằng gỗ tốt với kích thước phù hợp để không bị biến dạng bởi sóng nước trong thời gian sử dụng.
2. Mặt bè: Được đóng kín bằng thanh nẹp gỗ, đóng theo chiều ngang của bè, khe hở giữa các thanh khoảng 1 - 1,5cm. Chừa ra 2 – 3 cửa để cho ăn cũng như chăm sóc và thu hoạch cá. Cửa mặt bè có nắp đậy và nâng hạ được, kích thước khoảng 1x 2m.
3. Hông bè: Được ghép bằng ván gỗ ở phía trong trụ đứng, khe hở giữa các tấm ván cách nhau khoảng 1 - 1,5cm để cá không thoát ra ngoài được. Việc chữa khe hở là để cho nước lưu thông qua bè, do đó khe hở này không nhất thiết phải theo đúng qui cách trên mà tùy vào dòng chảy của nước sống. Nếu dòng chảy qua bè quá mạnh thì làm cho cá luôn luôn hoạt động, dẫn đến hao tốn năng lượng, từ đó kém ăn; còn nếu dòng chảy qua bè chậm thì sẽ làm cá thiếu oxy, các chất cặn bã, rác rưởi, phù sa tích tụ trong bè dễ gây ô nhiễm và làm cá bị bệnh.
4. Đầu bè: Được đóng kín bằng lưới kẽm, đồng hoặc inox có mắt lưới nhỏ (1,5 x 1,5 - 2 x 2cm). Đối với các bé nhỏ thì đầu bè được đóng bằng các thanh nẹp gỗ phía bên trong trụ đứng, chỉ chừa một khoảng ở giữa để đóng lưới.
5. Đáy bè: Đóng kín bằng ván, có chừa khe hở khoảng 1 - 1,5cm để tránh thất thoát thức ăn, đồng thời để cá tận dụng hết thức ăn chìm dưới đáy bè.
6. Phần nổi: Được ghép bằng thùng phuy, thùng nhựa PVC hoặc bằng tre. Thùng phuy phải được quét sơn hoặc dầu hắc để chống rỉ.
7. Neo bè: Phần này để cố định bè. Neo bè gồm mỏ neo, dây neo nylon có đường kính khoảng 2. 3cm. Có thể neo 4 góc bè hoặc 2 dây neo và 2 dây cột vào trụ cố định.
II. Chuẩn bị những công cụ cần thiết
Sau khi đóng xong bè, phải chuẩn bị sẵn những công cụ cần thiết sau đây để phục vụ việc nuôi cá.
Động cơ quạt nước (môtơ điện hoặc máy diesel) để hỗ trợ dòng chảy trong bè nhằm tăng cường oxy cho cá, nhất là vào mùa khô.
- Thuyền, ghe máy để vận chuyển thức ăn, mua nguyên vật liệu và hỗ trợ bơm nước, lò nấu thức ăn; máy xay, trộn và ép thức ăn.
C. VỊ TRÍ ĐẶT BÈ
I. Chọn vị trí thích hợp
Khi chọn vị trí đặt bè, phải xem xét và cân nhắc các điều kiện sau đây để quyết định chọn vị trí chính xác, tránh trường hợp phải di chuyển bè do vị trí không thích hợp. Bởi vì việc di chuyển bè rất khó khăn, tốn kém và ảnh hưởng đến kết quả nuôi.
Bè được đặt nổi và neo cố định tại một vị trí thuận lợi trên sông. Bà phải được đặt gần bờ (cách bờ ít nhất 10m), dọc theo dòng nước chảy, nơi có dòng chảy thẳng và liên tục, lưu tốc 0,2 – 0,5m/ giây, mực nước sông ít thay đổi theo thủy triều. Mặt bè phải nổi cao hơn mực nước sông khoảng 0,3 – 0,5m, đáy bé cách đáy sông ít nhất 0,5m vào lúc nước ròng. Nơi đặt bè phải đảm bảo không ảnh hưởng đến giao thông trên sông. Bà chỉ nên đặt ở những khúc sông có chiều rộng mặt sông vào lúc mực nước thấp nhất từ 70m trở lên.
- Nước sông nơi đặt bè không ảnh hưởng trực tiếp nước phèn, không thay đổi đột ngột. Vào mùa khô, khi nước bị ô nhiễm mặn thì độ mặn phải nằm trong giới hạn cho phép. Nguồn nước lưu thông phải sạch, không bị ô nhiễm bởi các công thải, nước thải của các nhà máy công nghiệp. Tránh nơi luồng nước ngầm, nơi bồi tụ, xói lở, nơi có nhiều rộng cỏ, nơi dòng nước có nhiều phù sa và cả ở những khúc quanh của sông.
- Vị trí đặt bè cũng phải đảm bảo sao cho thuận tiện giao lưu, gần trục lộ giao thông để thuận tiện trong việc vận chuyển thức ăn, cá giống và buôn bán cá thịt.
II. Qui cách đặt bè
Bè có thể đặt thành từng cụm, nhưng chiều ngang của cụm bé không chiếm quá 30% chiều rộng mặt nước sông vào lúc mực nước thấp nhất. Các bé có thể đặt song song hoặc nối đuôi nhau. Đặt song song thì phải cách nhau tối thiểu 5m; đặt nối đuôi thì phải cách nhau ít nhất 50m và phải đặt so le nhau để không cản trở dòng chảy.
Bảng giới hạn cho phép của một số chất ô nhiễm trong nước sông nơi đặt bè.