0334535069 - 0938894946
phamcaotrongpct94@gmail.com
VI
GIỚI THIỆU ĐẶC ĐIỂM MỘT SỐ LOÀI CÁ NUÔI NƯỚC NGỌT

C. GIỚI THIỆU ĐẶC ĐIỂM MỘT SỐ LOÀI CÁ NUÔI NƯỚC NGỌT

I. CÁ CHÉP

http://hoachatcaotrong.com/public/uploads/images/SmartSelectImage_2020-08-19-14-40-45.png

Hình 6. Cá Chép

Cá chép là một trong những loài có mặt sớm nhất trong nghề nuôi cá ở nước ta. Trên thế giới, cá chép phân bố rất rộng và phát triển theo nhiều hướng thích nghi: cá chép vảy, cá chép kính, cá chép trần, cá chép gù, cá chép không râu... Loài cá chép Việt nuôi truyền thống ở nước ta là chép vảy, hay chép trắng. Trong quá trình nghiên cứu nâng cao chất lượng đàn cá chép, các nhà khoa học bằng phương pháp chọn lai giống đã tạo ra con chép lại hai máu (giữa cá chép Việt và chép Hung) và con chép ba máu (giũa chép Việt, chép Hung và chép Indonexia). Trong sản xuất hiện nay, người nuôi cá thường ưa chuộng nuôi cá chép lại 3 máu do có đặc điểm ưu việt về ngoại hình, kích cỡ, tốc độ lớn và hiệu quả kinh tế cao. Cá chép lại 3 máu phải được tạo ra sau quá trình chọn lọc và gìn giữ cẩn thận 3 dòng cá thuần là chép Việt, chép Hung và chép Indo. Vì vậy, không phải bất kỳ cơ sở sản xuất nào cùng sản xuất được cá chép lại 3 máu. Cá chép sống ở tầng đáy và tầng giữa. Giai đoạn nhỏ, thức ăn của cá chép là sinh vật phù du, ấu trùng côn trùng. Giai đoạn trưởng thành, thức ăn của cá chép là các loại động vật đáy như nhuyễn thể giáp xác, côn trùng, ấu trùng côn trùng; giun, củ, rễ và mầm non thực vật; mùn bã hữu cơ... Trong sản xuất, cá chép có thể nuôi được với mật độ cao do có thể chịu đựng ngưỡng ôxy thấp. Thức ăn nuôi cá chép đa dạng: nước và bã đậu tương nghiền, bột ngũ cốc, thức và tổng hợp, phân bón... Cá chép là loài cá có tốc độ sinh trưởng nhanh, sau 1 năm nuôi từ cỡ cá giống, có thể thu hoạch được cá thương phẩm nặng 0,8 – 1,5kg. Cá chép thành thục và sinh sản sau 1 năm nuôi, chúng có thể sinh sản nhiều lần trong năm. Trong các ao nuôi, cá chép có thể sinh sản tự nhiên. Vào mùa Xuân và đầu mùa Hạ, gặp thời tiết thuận lợi, cá chép cặp đôi và tìm bãi có nhiều cây cỏ thuỷ sinh để đẻ trứng. Vì vậy, trong các ao nuôi cá chép, đặc biệt là trong các ao rộng, nhiều năm không có điều kiện làm cạn và thu hoạch triệt để, cá chép rất dễ bị thoái hoá do có cùng nguồn gốc. Người nuôi cá có thể sản xuất tự túc được cá chép giống nếu giữ được giống cá bổ mę tốt.

II. CÁ TRẮM CỎ

http://hoachatcaotrong.com/public/uploads/images/SmartSelectImage_2020-08-19-14-40-56.png

Hình 7, Cá Trắm cỏ

Cá trắm cỏ hiện đang nuôi ở nước ta có nguồn gốc từ Trung Quốc, được nhập về năm 1958. Chúng sống ở tần nước giữa và dưới, vùng ven bờ, trong các vực nước tương đôi trong, có nhiều cây cỏ thuỷ sinh. Trong điều kiện nuôi dưỡng, thức ăn sử dụng cho cá trắm cỏ là các loại cỏ non, bèo dâu, rau, lá sắn... Người nuôi cá có thể chủ động gây nuôi một số loại thực vật có chất lượng và năng suất cao làm thức ăn cho cá trắm cỏ như có voi, bèo dâu, rau muống... Ngoài những loại thức ăn thực vật, cá còn ăn được các loại bột ngũ cốc, thức ăn tổng hợp. Tuy nhiên, cá trắm cỏ không có men tiêu hoá thức ăn tinh nên nếu nuôi bằng thức ăn chế biến tổng hợp sẽ không kinh tế (hệ số sử dụng thức ăn viên là 7), khó có thể nuôi theo hướng công nghiệp. Có thể nuôi cá trắm cỏ trong các mô hình như nuôi cá ao, nuôi cá ruộng và nuôi cá lồng bè.

Trong ao nuôi, cá 1 năm tuổi có thể đạt cỡ >1kg, 2 năm đạt 3kg. Cá cái thành thục ở tuổi thứ 3 nhưng không thể sinh sản tự nhiên trong ao.

III. CÁ MÈ TRẮNG

Hiện nay, ở nước ta tồn tại 2 loài cá mè trắng là cá mè trắng Việt Nam và cá mè trắng Hoa Nam (Trung Quốc). Trong tự nhiên và cả trong sản xuất, 2 loài này đã bị lai tạp với nhau. Mới đây, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản 1 đã có công trình nghiên cứu nhằm chọn lọc lại 2 loài cá mè trắng riêng biệt. Cá mè trắng sống ở tầng nước giữa và trên. Giai đoạn cá nhỏ, thức ăn của cá mè trắng là động vật nổi và thực vật nổi. Giai đoạn trưởng thành, thức ăn của cá mè trắng là thực vật nổi và một ít động vật nổi, tỉ lệ động vật nổi trong thức ăn của cá mè trắng rất ít. Cá mè trắng cũng có thể ăn được các loại thức ăn dạng bột như cám gạo, bã đậu... Tu nhiên, ít có khả năng nuôi theo hướng công nghiệp.

http://hoachatcaotrong.com/public/uploads/images/SmartSelectImage_2020-08-19-14-41-11.png

Hình 8. Cá Mè trắng

Trong ao nuôi, tốc độ sinh trưởng của cá nhanh. Cá 1 năm tuổi đạt có từ 0,5 – 0,9kg, 2 năm đạt có 1,5 - 1,9kg, 3 năm đạt cỡ 2 - 4kg. Cá cái thành thục ở tuổi thứ 3, nhưng không sinh sản tự nhiên trong ao nuôi nước tĩnh. V. CÁ MÈ HOA Hình 9. Cá Mè hoa Cá mè hoa có nguồn gốc từ Trung Quốc. Cùng tuổi với cá mè trắng, cá mè hoa có kích thước và khối lượng lớn hơn. Trong điều kiện ao nuôi, cá mè hoa 1 tuổi có thể nặng 1,5 3kg, cá 2 tuổi nặng trên 4 – 5kg. Cá mè hoa sống ở tầng nước giữa và trên. Thức ăn chủ yếu của cá mè hoa giai đoạn nuôi thương phẩm là động vật phù du, một ít thực vật phù du. Thông thường, cá mè hoa được nuôi ghép với mè trắng, trắm cỏ, rô phi, chép, trong các ao đầm có diện tích rộng. Tỉ lệ ghép cá mè hoa trong các ao nuôi thấp, chỉ nên chiếm 3 – 5% tổng số lượng cá trong ao. Cá cái tuổi thứ 3 thành thục nhưng không sinh sản tự nhiên trong ao.

V. CÁ ROHU (CÁ TRÔI ẤN ĐỘ)

Cá rôhu (cả trôi Ấn Độ) được nhập vào Việt Nam tu năm 1982, là loài cá ăn tạp, có sức chịu đựng tốt với mô trường. Cá sông ở tầng đáy, khi nhỏ, thức ăn của cá rôh. chủ yếu là động vật phù du. Từ khoảng 1 tháng tuổi, c: chuyển dần sang ăn mùn bã hữu cơ. Giai đoạn trưởng thành, thức ăn chính của cá rôhu là mùn bã hữu cơ. Trong điều kiện nuôi, cá rôhu có thể sử dụng được các loại thức ăn như cám gạo, bột ngô, bã đậu, thức ăn tổng hợp. Cá rôhu thích hợp với các ao đầm có nhiều mùn bã hữu cơ, ruộng nuôi cá một vụ...

http://hoachatcaotrong.com/public/uploads/images/SmartSelectImage_2020-08-19-14-41-23.png

Hình 10. Cá Rôhu hay cá trôi Ấn Độ

Cá rôhu nuôi trong ao, 1 năm tuổi đạt cơ 0,5 - 1kg, 2 năm tuổi đạt cỡ 1- 2kg. Cá cái tuổi thứ 3 thành thục nhưng không có khả năng sinh sản tự nhiên trong ao. VI. CÁ MRIGAL Cá mrigal cũng là một loài cá nhập nội. Đặc điểm sinh học chính tương tự cá rôhu, Chúng sống ở tầng đáy, khi nhỏ ăn động vật phù du, khi trưởng thành ăn chủ yếu sinh vật đáy và mùn bã hữu cơ. Trong điều kiện nuôi, cá mrigal 1 năm tuổi đạt 0,5 - 1kg. Cá cái thành thục ở tuổi thứ 3 nhưng không thể tự sinh sản trong ao.

http://hoachatcaotrong.com/public/uploads/images/SmartSelectImage_2020-08-19-14-47-53.png

Hình 11. Ca Mrigat

VII, CÁ TRÔI (TRÔI VIỆT)

Cá trôi phân bố tự nhiên trên các sông suối miền Bắc. Trong thuỷ vực tự nhiên, cá trôi sống ở tầng đáy, ăn mòn bã hữu cơ, tảo bám đáy, rêu... Trong các ao nuôi, chúng ăn mùn bã hữu cơ, các loại thức ăn trực tiếp như các loại bột hạt, bột củ, cám tổng hợp, bã đậu, bã bia...

http://hoachatcaotrong.com/public/uploads/images/SmartSelectImage_2020-08-19-14-48-02.png

Hình 12. Cá Trôi Việt

Cá trôi Việt sinh trưởng chậm hơn so với các loài cá khác. Cá 1 năm tuổi có khối lượng 100 - 150gam, cá 2 năm tuổi nặng 200 – 350gam. Cá trôi thành thục ở tuổi thứ 3 nhưng cũng không có khả năng tự sinh sản trong ao.

VII, CÁ CHIM TRẮNG NƯỚC NGỌT

Cá chim trắng nước ngọt có nguồn gốc từ các sông suối vùng Amazon - Châu Mỹ, được nhập vào Việt Nam năm 1998 qua Trung Quốc. Hình dáng của cá chim trắng nước ngọt gần giống cá chim biển. Trong ao, cá chim trắng sống ở các tầng nước giữa và dáy, kiếm ăn theo đàn. Phổ thức ăn của cá chim rất rộng. Lúc còn nhỏ, cá chim trắng ăn chủ yếu động vật phù du, giai đoạn trưởng thành, cá ăn tạp. Các loại thức ăn của cá chim có: rau cỏ, mùn bả, động vật thuỷ sinh, bột ngũ cốc, thịt động vật... Có thể nuôi cá chim trắng trong các mô hình nuôi cá ao, nuôi cá ruộng và nuôi cá lồng. Cá chim trắng là loài cá dễ nuôi, tốc độ sinh trưởng nhanh. Cá nuôi 1 năm có thể cho cô thu hoạch từ 1 - 2kg. Có thương phẩm trên thị trường từ 0,8 – 1,5kg. Khả năng chịu rét của cá chim trắng tương đối kém, không nên nuôi cá thương phẩm qua Đông. Muốn giữ cá giông qua Đông phải có biện pháp chống rét cho cá. Tuổi thành thục sinh dục của cá chim trắng là tuổi thứ 4, nhưng cá chim trắng không có khả năng sinh sản tự nhiên trong ao.

3. CÁ TRA

http://hoachatcaotrong.com/public/uploads/images/SmartSelectImage_2020-08-19-15-03-53.png

Hình 13. Ca Tra

Cá tra phân bố tự nhiên ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, được di giống ra miền Bắc từ năm 1979, phổ biến từ năm 2001 - 2002. Đến nay, cá tra đã thành đối tượng nuôi tương đối phổ biến ở các tỉnh phía Bắc. Khả năng chống chịu với môi trường của cá tra tương đối tốt. Chúng sống được trong các ao tù bẩn. Cá tra là loài cá ăn tạp, phổ thức ăn rất rộng: các loại thức ăn động vật, rau bèo, phế và phụ phẩm nông nghiệp, các loại bột ngũ cốc, các loại thức ăn tổng hợp, phân chuồng... Cá tra có thể nuôi ao, nuôi lồng cho năng suất cao, sản lượng lớn. Tốc độ sinh trưởng của cá tra tương đối nhanh. Cá 1 năm tuổi có thể đạt 1 - 1,5kg/con.

Hiện nay, nước ta đã nghiên cứu thành công kỹ thuật cho sinh sản nhân tạo đối với cá tra, do vậy lượng con giống có thể chủ động được. Ở các tỉnh miền Bắc hiện nay, giống cá tra đều được đưa ra từ các tỉnh miền Nam.

X CÁ RÔ PHI

Rô phi là loài cá ăn tạp. Trong tự nhiên, chúng ăn các loại động vật phù du, động vật đáy, thực vật thuỷ sinh, mùn bã hữu cơ... Trong nuôi trồng, các loại thức ăn người ta dùng để nuôi cá rô phi có: phân chuồng, rau bèo, các loại bột ngũ cốc, thức ăn tổng hợp...

http://hoachatcaotrong.com/public/uploads/images/SmartSelectImage_2020-08-19-15-06-48.png

Hình 14. Cá Rô phi

Rô phi là loài cá có giá trị kinh tế cao, nên được ứng dụng nuôi rất rộng rãi. Rô phi có thể nuôi trong ao, trong ruộng, trong lồng. Cũng có thể nuôi ghép hoặc nuôi thâm canh cá rô phi. Các tỉnh miền Bắc nước ta đã nuôi cá rô phi từ đầu những năm 1950, nhưng cá rô phi nuôi từ đó là loài rô phi đen. Loài cá này sinh sản nhanh, cỡ thu hoạch nhỏ nên hiện nay không được ưa chuộng. Người ta đang bằng mọi cách loại bỏ loài cá này ra khỏi ao nuôi của mình. Cá rô phi đang được ưa chuộng hiện nay là một trong các dòng rô phi vọn. Gần đây, có thêm giống rô phi lại được nhập về từ các tỉnh miền nam Trung Quốc. Các dòng của loài rô phi vằn có chung đặc điểm là lớn nhanh, đẻ thưa, cô thu hoạch lớn hơn so với cá rô phi đen. Người ta đang chú ý nuôi nhiều nhất đến rô phi vằn dòng Gift, được Viện Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản 1 nhập về và nghiên cứu chọn giống từ năm 1994, Con giống rô phi vằn dòng Gift có 2 loại: loại đã được xử lý giới tính (rô phi đơn tính đực) và loại rô phi không được xử lý giới tính (rô phi “thuần”). Rô phi lại kể trên là con lại giữa 2 loài đã được chọn giống thuần là rô phi vằn và rô phi xanh. Loại rô phi này có đặc điểm là tỉ lệ cá đực trong đàn cao, tốc độ sinh trưởng nhanh và cô thu hoạch lớn. Cá rô phi có phổ thức ăn rộng lớn nhanh, ít bệnh, thời gian nuôi ngắn. Chất lượng thịt cá cao, không có xương dăm, là loài cá có nhiều ưu điểm để nuôi theo hướng công nghiệp. Rô phi sinh sản sau 6 tháng tuổi và có thể sinh sản tự nhiên trong ao. Do vậy kiểm soát mật độ cá rô phi trong ao rất quan trọng. Các biện pháp để hạn chế số lượng cá rô phi trong ao là: nuôi cá rô phi đơn tính, đánh tỉa cá lớn trong các ao nuôi rô phí thuần, thả cá dữ (như cá quả)...

D. KỸ THUẬT NUÔI CÁ AO NƯỚC TĨNH

Nuôi cá ao nước tinh là hình thức phổ biến nhất trong các hình thức nuôi cá nước ngọt, là kỹ thuật nuôi cá cơ bản.

Môi trường áo thuận lợi cho tất cả các khâu kỹ thuật, từ nuôi vỗ cá bố mẹ, cho sinh sản, ương nuôi cá con và nuôi cá thương phẩm. Trong khi đó, các loại hình mặt nước khác như ruộng trũng, sông, suối, mặt nước lớn... thường chỉ được áp dụng hạn hẹp để nuôi cá thương phẩm. Trình độ kỹ thuật nuôi cá ao truyền thống của nhân dân ta đã được lưu truyền từ nhiều đời nay và phát triển cao hơn nhờ các tiến bộ kỹ thuật mới. Nuôi cá ao nước tinh bao gồm 2 kỹ thuật chủ yếu là kỹ thuật ương nuôi cá con và kỹ thuật nuôi cá thương phẩm.