CÁCH XỬ LÝ KHI CÁ TRÚNG ĐỘC HOẶC NỔI ĐẦU
CÁCH XỬ LÝ KHI CÁ TRÚNG ĐỘC HOẶC NỔI ĐẦU
Tình trạng cá trong các ao nuôi bị trúng độc hoặc nổi đầu, dẫn tới cá chết hàng loạt xảy ra khá thường xuyên ở nhiều địa phương, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả chăn nuôi. Về mặt kỹ thuật, khi phát hiện trường hợp trên, cần phân biệt chính xác sự trúng độc và sự nổi đầu của cá để kịp thời có biện pháp cứu chữa phù hợp.
Cá nuôi trong ao bị trúng độc thường không theo mùa, thời tiết, ban ngày hay ban đêm mà luôn có thể xảy ra, còn cá nổi đầu phần lớn xảy ra vào mùa hè, và thu khi nhiệt độ cao, đặc biệt là áp thấp kéo dài, oi bức, mưa lâu và mưa giông. Thời gian xảy ra thường từ 12 - 4 giờ sáng.
1. Triệu chứng phát sinh
Khi cá trong ao bị trúng độc, hiện tượng nổi đầu thường không rõ, biểu hiện triệu chứng cũng khác vì sự khác nhau của chất độc, có loại biểu hiện bơi trốn, nhảy giãy giụa cho đến khi hôn mê, có loại biểu hiện dáng vẻ lờ đờ, thân cá đen, tăng độ nhớt, mất năng lực hoạt động và chết.
Còn nổi đầu là hiện tượng thiếu oxy nghiêm trọng, phân tán ở khắp nơi trong ao, mồm cá vừa há vừa đớp, trực tiếp hớp lấy oxy trong không khí trên mặt nước một cách bình tĩnh. Khi bị nặng cá dần dần nổi lật ngửa bụng lên, giãy giụa để giữ thăng bằng, sau mấy lần như thế, bụng sẽ hướng lên phía trên và chết.
Cá trong ao bị trúng độc chết thường không phụ thuộc vào loài, kích cỡ, ngay cả khi ở tầng đáy như cá chép, cá diếc, thậm chí cá chạch cũng có thể chết, nghiêm trọng thì toàn bộ cá trong ao đều chết. Cá chết do nổi đầu thường gặp là cá vền, cá mè, cá mè hoa.
2. Nguyên nhân nào
Các loài cá nuôi trong ao bị trúng độc phần nhiều liên quan đến khí thải nhà máy, nguồn xả chất thải có lẫn độc tố như H2S, hợp chất của Nitơ, kim loại nặng... thải vào ao nuôi hoặc khi phòng trị bệnh dùng thuốc quá liều lượng hoặc không đúng cách gây trúng độc cho cá. Cũng có thể do trong ao nuôi, sau khi tảo giáp chết sinh độc tố hoặc sự bùng nổ số lượng lớn tảo vàng làm tê liệt thần kinh của cá, hô hấp khó dẫn đến cá bị chết. Nguyên nhân gây nổi đầu chủ yếu do chất nước xấu, thời tiết khắc nghiệt, mật độ thả nuôi quá dày, làm cho nước thiếu oxy nghiêm trọng, cộng với thể chất của cá kém nên sinh ra hiện tượng nổi đầu.
3. Biện pháp phòng trị
Khi phát hiện cá bị trúng độc trong ao nuôi mà nguồn nước không bị ô nhiễm, phải lập tức cấp bổ sung một lượng lớn nước mới, tháo nước cũ trong ao, vừa tháo, vừa cấp cho đến khi cá trong ao trở lại bình thường. Đồng thời, phân tích nguyên nhân trúng độc để có biện pháp xử lý đúng, ví dụ, đối với một số loại tảo sinh độc tố có thể giết chết bằng việc phun tưới sulfat đồng, mỗi mẫu (đơn vị đo tính bằng 666,6m2) nước sâu lm dùng 0,2 - 0,6kg sulfat đồng.
Biện pháp cấp cứu hiện tượng nổi đầu là bơm một lượng lớn nước mới vào ao, mở guồng quạt nước, khi cần thì thả vào ao thuốc làm tăng oxy. Trước khi vào mùa hè oi bức âm u, nhiệt độ cao, kịp thời làm tốt việc phòng trị côn trùng có hại gây bệnh cho cá trong ao để tăng cường thể chất cho cá nhằm phòng chống bệnh tật.
BIỆN PHÁP KỸ THUẬT ĐỂ HẠN CHẾ VÀ KHẮC PHỤC BỆNH CÁ TRONG GIAI ĐOẠN CHUYỂN MÙA
Với xu hướng thâm canh hóa trong nghề nuôi cá thì bệnh xảy ra trong quá trình nuôi, nhất là vào giai đoạn chuyển mùa, là điều khó tránh khỏi và gây ra nhiều tổn thất. Tuy nhiên, nếu người nuôi tuân thủ một số yêu cầu kỹ thuật sau đây sẽ góp phần hạn chế tối đa thiệt hại có thể xảy ra do dịch bệnh cá.
I. NHỮNG NGUYÊN NHÂN LÀM CÁ BỊ BỆNH
1. Chất lượng nước bị thay đổi
- Nhiệt độ nước thay đổi đột ngột từ tháng 12 đến tháng 2 (có thể xuống thấp đến 16 - 22°C) hoặc nhiệt độ tăng cao vào tháng 3 đến tháng 5 (lên đến 30 - 35°C) đều làm cá bỏ ăn, suy yếu tạo điều kiện cho sinh vật gây bệnh phát triển, làm cho cá dễ bệnh.
- Nguồn nước nuôi bị ô nhiễm bởi chất thải từ các nhà máy, dầu thải các ghe tàu, thuốc trừ sâu, và nước phèn đổ ra từ ruộng vào các tháng mùa khô cũng ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cá nuôi.
Khi nước đứng hoặc chảy yếu, cá nuôi với mật độ cao có thể thiếu oxy để thở, bơi lội hỗn loạn, nhảy nhào trong lồng và có thể chết. Lúc này cần phải kịp thời dùng máy bơm quạt nước để tăng cường trao đổi nước, và cải thiện hàm lượng oxy trong môi trường nuôi.
- Khi nước chảy quá mạnh, cá phải bơi lội liên tục, tiêu tốn nhiều năng lượng, chậm lớn, từ đó tạo điều kiện cho mầm bệnh dễ dàng xâm nhập. Trường hợp này phải điều chỉnh khoảng cách giữa các thanh gỗ hay tre ở hai đầu bè cho thích hợp.
2. Chất lượng thức ăn kém
Chất lượng thức ăn có vai trò rất quan trọng đối với nuôi cá thâm canh, đặc biệt là nuôi cá bè. Thức ăn chất lượng tốt sẽ phòng tránh các bệnh về dinh dưỡng và cần cho việc phòng các bệnh liên quan tới nhiễm trùng và stress.
Nếu cá bị đói sau một thời gian dài hoặc thức ăn kém chất lượng sẽ dẫn đến bị suy yếu, chậm lớn và có thể tạo điều kiện cho tác nhân gây bệnh tấn công.
3. Thiếu cẩn thận khi chăm sóc cá
Các dụng cụ cho ăn không được vệ sinh thường xuyên là nơi ẩn chứa mầm bệnh.
Các dụng cụ vận chuyển, bắt cá như lưới vợt, thùng... có thể làm xây xát cá trong quá trình thao tác và vì thế mầm bệnh có điều kiện xâm nhập vào. Do đó, phải dùng các dụng cụ nhẵn, lưới không gút để hạn chế trường hợp này.
4. Nguồn giống kém chất lượng
Cá có thể đã bị mắc bệnh từ nguồn giống thả nuôi chưa được kiểm định, chưa được chọn lựa kỹ càng, mang mầm bệnh hoặc chưa được xử lý diệt trùng, khi cá thả xuống nuôi một thời gian gặp thời tiết thay đổi sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho mầm bệnh phát triển. Cá yếu là cơ hội cho dịch bệnh phát sinh và gây hại cho cá nuôi.
II. PHƯƠNG PHÁP PHÒNG BỆNH CHO CÁ
Việc duy trì sức khỏe tốt cho cá rất quan trọng để chăn nuôi cá có lợi nhuận cao. Tăng trưởng chậm, tiêu tốn thức ăn nhiều, năng suất thấp, tỉ lệ nhiễm bệnh và chết tăng, dẫn đến lợi nhuận thấp do kết quả sức đề kháng của cá kém.
Trong giai đoạn chuyển mùa, thời tiết thay đổi đột ngột dễ làm cá bị stress, các tác nhân gây bệnh có điều kiện phát triển và xâm nhập vào cơ thể. Nên điều cơ bản để giữ sức khỏe và phòng bệnh cho đàn cá là tránh stress bằng cách duy trì chất lượng môi trường qua việc chăm sóc đúng cách.
1. Cải tạo môi trường
a. Chuẩn bị ao, bè nuôi
Sau khi thu hoạch, các ao, hầm, bè muốn sử dụng lại cần phải được cải tạo để có môi trường sống tốt cho thủy sản nhằm phòng bệnh và nâng cao năng suất cá nuôi.
– Tát cạn nước, vét bùn ra khỏi ao (không để lại bùn thối trong ao), phơi ao 5 - 7 ngày;
-Tu sửa lại bờ ao, cống bọng, làm vệ sinh mương cấp, thoát nước,
b. Tẩy độc cho ao, bè nuôi
- Dùng vôi (CaO) để tẩy độc và trung hòa pH: sử dụng 10 - 15kg/100m2 rãi đều đáy ao, bờ ao; trường hợp ao có phèn (pH < 5) thì dùng 15 - 20kg/100m; đối với những ao không thể rút cạn nước, dùng vôi từ 0,5 - 1kg/mở rãi trực tiếp xuống ao. Nên rãi vôi vào ngày nắng, chú ý những nơi có bùn đọng.
- Dùng rễ cây thuốc cá: 4g/m3 hay saponin để diệt tạp chất.
Chà rửa sạch, phơi khô lồng bè, sau đó quét hoặc phun Clorua vôi Ca(OCl)2 với lượng 200-250g/m3 bè.
2. Tăng cường chăm sóc quản lý
a. Tẩy trùng cho cá
Khi nhận giống về nuôi, trước khi thả nên:
Tắm cá bằng cách dùng muối ăn 2 - 4g/L trong 15 - 20 phút hoặc dùng formalin 25 - 30 g/ m3 để diệt trùng và nấm gây bệnh cho cá;
Phun thuốc xuống ao: dùng Clorin 1g/m hoặc CuSO4 0,2 – 0,5g/mở nước ao;
Trong quá trình nuôi, định kỳ bón vôi xuống ao từ 1,5 - 2kg/100m2 và treo túi thuốc trong lồng bè: có thể dùng Clorin 10 - 20g/m3 bè.
b. Tẩy trùng nơi cho ăn
Vôi 2-4kg/túi treo quanh chỗ cho ăn, 5 - 7 ngày thì thay túi;
Clorin 200 - 250g/m3 để tẩy trùng dụng cụ trong 12 - 24 giờ.
c. Chọn giống thả
Không nên thả với mật độ quá dày, giống thả mới hoặc bổ sung nên yêu cầu được cung cấp giống đã được chứng nhận kiểm dịch và đảm bảo đạt tiêu chuẩn chất lượng sau:
- Kích cỡ đồng đều, ngoại hình cân đối, không dị hình;
- Khỏe mạnh, không nhiễm bệnh;
Không xây xát, nhiều nhớt, bơi lội nhanh nhẹn.
-Lưu ý, trong quá trình nuôi nên:
- Định kỳ 2 lần/ tuần bổ sung Vitamin C cho cá ăn với liều trộn 40g/100kg thức ăn.
- Dùng thuốc tiêu Nabica 2 lần/ tuần với liều trộn 30 viên/100kg thức ăn.
- Có thể dùng Thyromin cho ăn 2 lần/ tuần (theo hướng dẫn ghi trên bao bì)
Ngoài ra, phải thường xuyên theo dõi hoạt động của cá để kịp thời phát hiện và xử lý những bất thường; cho cá ăn thức ăn đảm bảo chất lượng và đủ số lượng; định kỳ bón phân; thường xuyên vệ sinh xung quanh khu vực nuôi, thức ăn thừa và diệt trừ địch hại.