Cách Nuôi Tôm Hùm Alaska ( Môi Trường Sống )
IV. MỘT SỐ YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VÙNG PHÂN BỐ TÔM HÙM
Hầu hết các giống có thành phần loài phong phú thuộc họ tôm hùm Gai (Palinuridae) đều tập trung ở vùng biển nhiệt đới. Chúng sống ở vùng trung triều đến vùng biển sâu tới 3.000 m, thành từng đàn trong hang để bảo vệ nhau và trốn tránh kẻ thù. Tìm hiểu môi trường vùng phân bố tôm hùm sẽ giúp biết được những đặc điểm sinh thái tự nhiên của chúng, từ đó có thể lựa chọn vùng nuôi có đặc điểm môi trường thích hợp, đồng thời điều chỉnh được các thông số như độ sâu, độ mặn,... theo từng giai đoạn phát triển, giúp tôm thích nghi tốt với điều kiện nuôi lồng.
- Yếu tố nền đáy
Cấu tạo nên đáy là một trong những yếu tố môi trường quan trọng, quyết định sự phân bố của tôm hùm, đặc biệt là tôm trưởng thành. Tôm hùm thường tập trung chủ yếu trong các hang hốc có nền đáy là đá, san hô, đá tảng, bùn, cát hoặc thảm thực vật (tảo bẹ).
Riêng tôm hùm Bông (Panulirus ornatus), tôm hùm Đá (P. homarus), tôm hùm Đỏ (P. longipes) và tôm hùm Sen (P. versicolor) thường sinh sống ở những hang đá tảng và hang đá nhỏ có ánh sáng rọi tới; tôm hùm Tre (P. polyphagus) lại thích vùi mình dưới cát vì thế loài này thường phân bố ở những vùng đáy cát, đá cuội có trong phát triển.
2. Độ sâu
Độ sâu có ảnh hưởng đến sự phân bố của các loài tôm hùm trong tự nhiên.
Ở giai đoạn tôm con, chúng phân bố ở độ sâu 1-5m nước, nhưng đến giai đoạn trưởng thành thì hầu hết các loài tôm hùm đều phân bố ở độ sâu trong khoảng từ 5-100m nước. Đôi khi cũng gặp ở độ sâu đến 180-400m như loài Panulirus delagoae.
Nghiên cứu của một số kỹ sư cho thấy, ở vùng biển miền Trung Việt Nam, tìm thấy tôm hùm con độ sâu từ 0,5-5m nước. Tuy nhiên, cùng một khu vực nhưng các loài khác nhau lại sống ở độ sâu khác nhau, theo mức độ tăng dần như sau: tôm hùm Sỏi (Panulirus stimpsoni); tôm hùm Bông (P. ornatus); tôm hùm Đá nhỏ (P. homarus); tôm hùm Đỏ (P. longipes), khoảng 4-6m sâu. Do vậy, khi ươm nuôi tôm hùm cần chú ý đến độ sâu khi đi lồng, thường ở khoảng 2 - 3m.
Giai đoạn trưởng thành, tôm hùm phân bố độ sâu trên 10m cho tới 35 - 50m, thường là cá rạn san hô, ven bờ và hải đảo.
3. Nhiệt độ nước
Nhiệt độ nước là một trong những tham số sinh thái quan trọng, quyết định sự phân bố của các giống tôm hùm trong họ Palinuridae. Hầu hết các loài thuộc giống Panulirus sống ở vùng nước ấm, nhiệt độ dao động từ 20 - 30°C, trung bình khoảng 25°C, đó là những vùng thềm lục địa, vĩ độ thấp khoảng 35 - 40°.
Ở vùng biển miền Trung nước ta, số liệu điều tra cho thấy, nhiệt độ nước ở vùng phân bố tự nhiên của tôm hùm Bông nhỏ, dao động từ 24 - 31°C; còn của tôm hùm trưởng thành từ 26 - 29°C vào mùa hè và khoảng 22 - 27°C vào mùa đông. Hơn nữa, khi nhiệt độ nước thay đổi đột ngột, chẳng hạn như tăng lên 3-5°C thì hầu như tôm hùm con đều bị chết, khi giảm nhiệt độ nước xuống 5ºC thì pha lột xác của tôm hùm sẽ chậm dần và dừng lại hoàn toàn.
4. Độ mặn
Độ mặn là một trong những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của tôm hùm, đặc biệt là tôm hùm con.
Những số liệu điều tra cho thấy vùng phân bố tôm hùm con ngoài tự nhiên có độ mặn dao động mức 33 – 34%o. Sự thay đổi độ mặn đột ngột (từ 5 -15%o) sẽ làm hoạt động săn mồi của tôm con giảm từ 30 - 90%, khi độ mặn giảm còn 20 - 25%o và kéo dài 3 – 5 ngày sẽ dẫn đến tình trạng chết từ từ ở tôm con. Độ mặn vùng biển tác động mạnh đến hoạt động săn mồi, khả năng điều hòa áp suất thẩm thấu ở tôm hùm con,... từ đó, những thay đổi bất lợi hoặc thời gian lột xác kéo dài đều gây chết đối với chúng.
Số liệu điều tra ở khu vực miền Trung Việt Nam cho thấy, tôm hùm trưởng thành đều sống ngoài khơi ở độ sâu dưới 10m nước, và độ mặn dao động từ 30-5%.
Tôm hùm là động vật sống chủ yếu trong hệ sinh vật đáy ở biển. Chúng bắt mồi vào ban đêm nơi có nguồn thức ăn phong phú gồm các loài liên quan với rạn san hô và có ảnh hưởng trực tiếp tới cấu trúc chung của hệ sinh thái hoặc một vùng sinh thái, kể cả thành phần loài và độ phong phú của các sinh vật là môi của chúng.
Ở nước ta, theo một số nghiên cứu cho thấy, thành phần động thực vật thường gặp ở vùng tôm hùm phân bố bao gồm: các động vật thuộc loài giáp xác nhỏ (tôm, cua), thân mềm (sò, vẹm, ốc), cầu gai, sao biển, một số loài cá (cá đáy, cá rạn san hô), huệ biển, hải sâm và các loài rong, rêu.