0334535069 - 0938894946
phamcaotrongpct94@gmail.com
VI
Cách Nuôi Tôm Hùm Alaska ( Khai thác và vận chuyển tôm hùm giống )

KỸ THUẬT KHAI THÁC VÀ VẬN CHUYỂN TÔM HÙM GIỐNG

I.KHAI THÁC BẰNG LƯỚI

Ngư cụ khai thác là lưới trú:

+ Mắt lưới có kích cỡ 5mm (2a = 5mm).

+ Kích thước lưới phụ thuộc vào quy mô khai thác.

+ Độ dài lưới dao động khoảng 100 - 150m, độ cao 4 - 6m.

* Hoạt động khai thác được tiến hành vào ban đêm.

+ Sử dụng ánh sáng đèn neon có cường độ khoảng 1000 - 2000W.

+ Lưới được giăng xuống biển bằng thuyền, vào khoảng 8 giờ tối, sau 4 - 5 tiếng (vào khoảng 0 giờ) lưới được kéo lên thuyền lần thứ nhất để thu gom những con tôm hùm giống sa lưới. Ngay sau đó, lưới được giảng tiếp xuống biển, vào khoảng 4 giờ sáng lưới được kéo lên lần 2. Một đêm khai thác thường kết thúc vào khoảng 5 giờ sáng ngày hôm sau.

+ Những tôm hùm giống mắc lưới được gỡ ra rất nhanh và được lưu giữ trong các thùng nhựa tròn, có thể tích 4 lít, khoảng 100 - 150 con/thùng, có máy sục khí. Kích cỡ tôm giống thu được khá đồng đều, chúng trong suốt, chiều dài giáp đầu ngực chỉ dao động từ 7 - 8mm/con và trọng lượng từ 0,25 - 0,35g/con.

+ Khi thuyền cập bến, tôm hùm giống được chuyển sang các thùng xốp chứa nước biển sạch. Kích thước của thùng là 30 x 50 x 25 cm, dưới đáy rải một lớp cát mỏng 5 - 7mm. Mật độ lưu giữ khoảng 200 - 300 con/thùng và có sục khí liên tục.

II. KHAI THÁC BẰNG BẪY

Loại bẫy được làm bằng lưới thường có chiều dài 60cm và đường kính khoảng 40cm. Riêng bẫy san hô thì có nhiều kích cỡ khác nhau tùy thuộc vào từng loại san hô.

Đa số san hô tảng được chọn là những khối có trọng lượng khoảng 2 - 5kg, các lỗ trên bề mặt được khoan cách nhau khoảng 10-15cm, kích thước mỗi lỗ từ 2 – 2,5cm. Đối với bẫy được làm bằng những gỗ cây cũng được khoan lỗ tương tự như đối với san hô.

Các loại bẫy được thả xuống nước ở độ sâu khoảng 4-5m vào tháng 11 hàng năm, nghĩa là vào thời gian xuất hiện tôm hùm giống. Sau khoảng 3 – 5 ngày, khi bẫy đã ổn định, ngư dân sẽ thu bắt tôm hùm hàng ngày vào các buổi sáng bằng cách giữ bẫy vào trong vợt lưới hoặc bắt chúng ra bằng tay từ các lỗ đã khoan. Kích cỡ con giống thu được khoảng 7,5 - 10mm CL/con và trọng lượng xấp xỉ 0,3 – 1g/con. Vào cuối tháng 5, bẫy cũng được thu lên bờ và giữ ở nơi thoáng mát để sử dụng cho mùa khai thác năm sau.

Với cách khai thác này, trong một diện tích thả bẫy khoảng 50 x 100m có thể thu gom được khoảng 50 - 200 con/ngày vào những tháng cao điểm như tháng 1 hoặc tháng 2 trong năm. Và tôm giống cũng được giữ trong các thùng xốp hoặc xô nhựa với nước biển có sục khí.

III. KHAI THÁC BẰNG CÁCH LẶN BẮT

Đây là loại hình khai thác truyền thống của ngư dân miền Trung. Năm 1998 trở về trước, tôm hùm giống được khai thác chỉ bằng cách lặn bắt. Hình thức này đảm bảo con giống khỏe, với kích cỡ lớn từ 12 - 15mm CL/con và trọng lượng 7-9g/con. Song số lượng con giống được khai thác mỗi ngày chỉ được tối đa 100 - 150 con/thuyền/10 ngày/5 người vào mùa khai thác chính trong năm. Vào các tháng sau số lượng khai thác chỉ đạt 3 - 10% so với vụ chính.

IV. VẬN CHUYỂN TÔM HÙM GIỐNG

Tôm hùm giống đã được vận chuyển bằng nhiều phương thức khác nhau từ các vùng khai thác đến khu vực nuôi dọc ven biển miền Trung.

Từ những số liệu điều tra cho thấy, các hình thức vận chuyển đều đảm bảo tỷ lệ sống sót trên 80%.

1. Phương pháp vận chuyển khô

Thường được sử dụng để vận chuyển con giống lớn khoảng 30 - 100g/con. Dụng cụ vận chuyển là các thùng xốp có kích thước 30 x 40 x 25 cm; hoặc 60 x 70 x 45cm tùy thuộc vào số lượng con giống cần vận chuyển. Mật độ tôm vận chuyển khoảng 150 - 300 con/thùng xốp. Thời gian vận chuyển khoảng 3 – 7 giờ với nhiệt độ được duy trì 21 - 22°C bằng đá cây lạnh giữ trong các hộp nhựa hoặc túi nilon kín. Tôm được giữ độ ẩm bằng rong hoặc khăn vải dày và được chuyên chở bằng xe máy hoặc ôtô. Tỷ lệ sống sót đạt 90 - 95%.

2. Phương pháp vận chuyển nước

Được sử dụng để vận chuyển con giống nhỏ, từ post-puerulus (tôm trắng) đến juveniles (tôm bò cạp). Trọng lượng của cỡ giống này chỉ xấp xỉ 0,25 - 1 g/con, và rất nhạy cảm với sự thay đổi đột ngột của môi trường.

Dụng cụ vận chuyển cũng là các thùng xốp có kích cỡ 30 x 50 x 25 cm hoặc 45 x 60 x 35 cm.

Dưới đáy thùng được phủ một lớp rong tươi hoặc một lớp cát dày 0,5 - 1cm. Đổ nước biển sạch vào thùng xốp cao ngập cát hoặc rong khoảng 5 -7cm và sục khí trong suốt thời gian vận chuyển. Nhiệt độ nước được duy trì 21 - 22°C với thời gian vận chuyển từ 5 - 15 giờ; và nhiệt độ khoảng 23 - 25°C với thời gian vận chuyển 3 - 5 giờ bằng đá cây lạnh giữ trong các hộp nhựa hoặc túi nilon kín.

Tôm giống được đưa vào thùng xốp với mật độ 300 - 400 con/thùng nhỏ hoặc 700 - 1000 con/ thùng lớn. Song vận chuyển bằng xe máy thường sử dụng các thùng nhỏ vì tính gọn, nhẹ và dễ xử lý trên đường vận chuyển. Thùng lớn được sử dụng khi vận chuyển giống với số lượng lớn bằng xe ô tô. Tỷ lệ sống sót đạt 95 - 97%.

3. Chất lượng và tỷ lệ sống của con giống sau vận chuyển

Chất lượng con giống phụ thuộc khá lớn vào hình thức khai thác và thời gian lưu giữ tôm sau khi khai thác; phụ thuộc vào cỡ giống, thời gian và kỹ thuật lưu giữ.