Cách Nuôi Tôm Hùm Alaska ( Đặc Điểm )
ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA TÔM HÙM
I. PHÂN LOẠI TÔM HÙM
Tôm hùm là tên gọi chung của nhóm giáp xác mười chân thuộc 4 họ: Palinuridae, Scyllaridae, Nephropidae và Synaxidae. Giữa những họ này có các điểm đặc trưng riêng về tập tính và môi trường sống.
Với sự đa dạng về thành phần giống loài, chúng tạo nên mắt xích quan trọng trong chuỗi thức ăn và có vai trò thiết yếu trong hệ sinh thái biển và đại dương.
Ở Việt Nam, đến nay đã xác định được 9 loài thuộc họ tôm hùm gai (Palinuridae), 9 loài thuộc họ mũ ni (Scyllaridae) và 4 loài thuộc họ Nephropidae. Trong đó, một số loài thuộc họ tôm hùm gai được nuôi phổ biến hiện nay như tôm hùm Bông (tôm hùm Sao, tôm hùm Hèo), tôm hùm Đá (màu xanh chân ngắn), tôm hùm Đỏ (hùm lửa), tôm hùm Sỏi (màu xanh chân dài, hùm ghì), tôm hùm Tre.
Phân loại một số loài tôm hùm được nuôi ở Việt Nam:
- Ngành chân đốt (Arthropoda) - Lớp giáp xác (Crustacea) - Bộ mười chân (Decapoda) - Họ tôm hùm gai (Palinuridae) - Giống Panuliru
- Loài P. ornatus (Fabricius, 1798) - tôm hùm Bô
- Loài P. homarus (Linnaeus, 1758) - tôm hùm Đá
- Loài P, longipes (A. Milne Edwards, 1868) - tôm hùm Đỏ
- Loài P. stimpson Holthuis, 1963 - tôm hùm Sối
- Loài P. polyphagus (Herbst, 1793) - tôm hùm Tre
II. HÌNH THÁI
Cơ thể tôm hùm Panulirus spp. chia thành hai phần đầu ngực và phần bụng. Phần đầu ngực gồm 14 đốt hợp lại với nhau, mỗi đốt có một đôi phần phụ ngực; 6 đốt đầu tiên tạo nên phần đầu và 8 đốt cuối tạo nên phần ngực.
- Các phần phụ trên phần đầu ngực gồm: 5 đôi chân bò; 1 đôi mắt kép có thể cử động, bất động, hoặc co lại; có 2 đội anten, anten thứ nhất có phân nhánh, anten thứ hai rất dài và có nhiều gai nhỏ; phân miệng có hàm trên, hàm dưới và các mảng chân hàm. Phần bụng gồm 6 đốt, các đốt được bảo vệ bằng lớp vỏ kitin ở cả phần lưng, phần bên và phần bụng. Từ đốt bụng thứ 2 đến thứ 5 có 4 đôi chân bơi, đốt bụng thứ 6 biến thành chân đuôi và telson rất cứng và chắc chắn.
II. ĐẶC ĐIỂM DINH DƯỠNG, SINH TRƯỞNG VÀ SINH SẢN CỦA TÔM HÙM
Trong tự nhiên, tôm hùm là động vật ăn tạp, thường đi kiếm ăn và ăn mồi nhiều vào lúc chiều tối; chúng thích các loại thức ăn sống như tôm, cua, ghẹ đang lột xác, sò, vẹm hoặc cá rạn,...
Thức ăn là nguồn cung cấp năng lượng duy nhất để tôm hùm sinh trưởng và phát triển. Tuy nhiên, chúng chỉ sử dụng từ 7 đến 10% lượng thức ăn cho sự tăng trọng; còn lại tiêu tốn vào các quá trình hoạt động sống khác. Nhu cầu dinh dưỡng của tôm hùm khác nhau tùy từng giai đoạn phát triển, tôm càng nhỏ thì nhu cầu dinh dưỡng càng cao, ở giai đoạn trước lột xác 2 - 5 ngày, tôm ăn rất nhiều và ngược lại ở giai đoạn lột xác chúng sẽ ăn ít lại.
2. Đặc điểm sinh trưởng
Sự sinh trưởng của tôm hùm được đặc trưng bởi quá trình lột xác, qua đó có sự tăng lên về kích thước và trọng lượng. Chu kỳ lột xác của mỗi loài tôm hùm phụ thuộc vào các yếu tố ngoại cảnh như: nhiệt độ nước, ánh sáng, độ mặn, thức ăn,.... và các yếu tố nội tại như sự điều tiết của các hormon lột xác hay hormon ức chế lột xác,... Các yếu tố này luôn có mối quan hệ mật thiết và tác động lẫn nhau.
Chu kỳ lột xác của các loài hay các giai đoạn khác nhau của từng loài thì không giống nhau. Ở giai đoạn tôm con (chiều dài giáp đầu ngực - CL= 8 - 13mm), thời gian giữa hai lần lột xác của tôm hùm Bông và tôm hùm Đá khoảng 8 - 10 ngày, tôm hùm Sỏi khoảng 15-20 ngày. Còn ở giai đoạn tôm lớn (63-68 mm CL), thời gian giữa 2 lần lột xác khoảng 40 đến 50 ngày.
Các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của tôm hùm, đặc biệt là giai đoạn tôm con, những thay đổi đột ngột của môi trường thường dẫn đến tôm chết hàng loạt. Chẳng hạn như khi nhiệt độ tăng lên 3-5°C, hoặc nồng độ muối tăng lên 8-10%o thì hầu như tôm con đều bị chết.
Nồng độ muối thấp 20 - 25% kéo dài 3-5 ngày cũng gây nên tình trạng chết từ từ ở tôm CG). Giai đoạn trưởng thành khi độ mạn giảm xuống 27% thì tôm hùm yếu và không bắt mồi.
3. Đặc điểm sinh sản
Các loài tôm hùm khác nhau thì kích cỡ sinh sản lần đầu và mùa sinh sản cũng khác nhau. Chẳng hạn, ở tôm hùm Bông, kích cỡ con đực là 110,6 mm CL và ở con cái là 97,3 mm CL (chiều dài giáp đầu ngực); ở tôm hùm Đá, thì kích cỡ vào khoảng 66,7 mm CL ở con đực và 56,9 mm CL ở con cái.
Mùa cao điểm sinh sản của loài tôm hùm thường tập trung vào tháng 4 và tháng 9 hàng năm, riêng tôm hùm Sỏi thì cao điểm sinh sản vào tháng 5 và tháng 6. Sức sinh sản của tôm hùm tương đối lớn, chúng có thể đẻ từ 2 đến nhiều lần trong năm. Khi sinh sản, trứng được giữ ở các chân bơi, sau một thời gian sẽ nở ra ấu trùng và ấu trùng sẽ trải qua các giai đoạn để trở thành tôm con.