BẢY BIỆN PHÁP PHÒNG BỆNH CHO CÁ
BẢY BIỆN PHÁP PHÒNG BỆNH CHO CÁ
Việc kiểm tra tốc độ sinh trưởng cũng như sức khoẻ của cá để phát hiện bệnh dịch là rất khó khăn. Vậy để nuôi cá đạt hiệu quả cao, ngoài việc thực hiện đúng kỹ thuật, người nuôi còn phải theo dõi hoạt động của cá để phát hiện bệnh dịch kịp thời có biện pháp điều trị thích hợp.
Sau đây là bảy phương pháp phòng bệnh hiệu quả cho cá:
1. Vệ sinh ao đìa sạch sẽ trước khi thả nuôi nhằm mục đích ngăn chặn sự lây nhiễm từ đáy ao. Vét bùn tích tụ ở đáy ao do thức ăn dư thừa phân huỷ. Bón vôi với lượng 10-15 kg/100m2. Phơi đáy ao 3 – 5 ngày nhằm tiêu diệt mầm bệnh, nấm, rong, rêu, các ký chủ trung gian... Còn với ao bị nhiễm phèn thì không nên phơi đáy ao. Chú ý lấy nước vào ao phải qua lưới lọc, nguồn nước không bị ô nhiễm. Gây tảo, màu nước làm thức ăn tự nhiên cho cá.
2. Chọn giống tốt, không mang mầm bệnh. Trước khi thả cá vào ao phải tắm cá qua nước muối (200 - 300g/10 lít nước, trong khoảng 10-15 phút.)
3. Mật độ nuôi thích hợp sẽ hạn chế sự ô nhiễm trong quá trình nuôi và sự lây lan bệnh dịch. Mật độ thích hợp là 4 - 5 con/m2.
4. Chăm sóc và cho ăn đúng kỹ thuật.
5. Quản lý chất lượng nước ao tốt.
6. Mùa mưa nên đào rãnh và rải vội quanh bờ để ngăn phèn, với lượng 7 - 10kg/10m2.
7. Quản lý các yếu tố môi trường khác (nhiệt độ, độ sâu, nước ao, hàm lượng oxy hoà tan pH).
Ngoài ra, trong quá trình nuôi còn sử dụng một số cây thuốc nam như lá giác, lá xoan... từ 3– 5 kg/100m2 để phòng bệnh cho cá.
PHÒNG BỆNH CHO CÁ SAU MÙA LŨ
Sau mùa lũ, nhiều công trình cơ sở hạ tầng ngành thủy sản như cống, đập, bờ bao, ao đầm, lồng bè nuôi trồng thủy sản bị phá hủy. Lũ lụt còn làm cho các ao đầm tụ bùn, phù sa, mùn bã, rác và các chất thải khác; làm ô nhiễm nguồn nước và tiềm ẩn các mầm bệnh đối với cá nuôi. Vì vậy, để khôi phục sản xuất thủy sản ở vùng ngập lụt, cần cải tạo môi trường nuôi, kiểm tra chặt chẽ đàn cá và chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa bệnh dịch cho cá.
Cải tạo môi trường: Để khôi phục sản xuất thủy sản sau lũ, lụt, phải cải tạo lại ao đầm; làm cạn nước, vét bùn ra khỏi ao, dùng vôi (CaO) rải đáy và bờ ao để diệt tạp chất và trung hoà độ pH. Rải vôi vào ngày nắng, tập trung ở những nơi đọng bùn; tu bổ lại cống, đăng và làm vệ sinh mương-cấp và thoát nước; cọ rửa, phơi khô lồng, bè, sau đó quét hoặc phun vôi (Ca (OCl)2 với lượng 200 - 250 g/m2 lồng).
Kiểm tra và thả bổ sung cá nuôi:
+ Trong các ao đầm nuôi cá sau ngập lụt, thường xuất hiện nhiều loại cá tạp từ nơi khác đến, đồng thời, cá nuôi cũng bị cuốn trôi đi nơi khác.
+ Số cá còn lại sống trong môi trường nước bị ô nhiễm, thiếu thức ăn. Do đó, cần kiểm tra, tuyển chọn lại đàn cá nuôi và bổ sung cá giống. Đối với cá được tuyển chọn để nuôi lại, cần phải tẩy trùng trước khi thả sang ao khác.
+ Đối với cá giống thả bổ sung, phải chọn cá đủ tiêu chuẩn, không nhiễm bệnh, khoẻ mạnh, bảo đảm kích cỡ.
Phòng, trị bệnh cho cá trong quá trình nuôi:
+ Cá nuôi ở những vùng bị ngập lụt thường mắc các bệnh như: xuất huyết do nhiễm virus, đốm đỏ do vi khuẩn gây hại, trùng bánh xe, sán lá đơn chủ, bệnh do giáp xác ký sinh. Do vậy, trong quá trình nuôi, cần chủ động phòng ngừa bằng cách: bón vôi định kỳ xuống ao 15 ngày một lần, mỗi lần 1,5 - 2 kg/100m3 nước; sử dụng các chế phẩm sinh học như chất phục hồi môi trường và ức chế vi sinh vật có hại MAZD, chất lắng đọng xử lý môi trường CV -01, chất xử lý ô nhiễm nền đáy ENVIRON - AC, thường xuyên theo dõi hoạt động của cá để phát hiện bệnh kịp thời.