Cách phòng trị sâu bướm phượng
Cách phòng trị sâu bướm phượng
- Phân bố và ký chủ:
Có nhiều loài bướm phượng gây hại phổ biến ở hầu hết các quốc gia trồng cam, quýt trên thế giới. Ở nước ta, các vùng trồng cam, quýt đều thấy các loài này xuất hiện, phổ biến nhất là:
+ Bướm phượng vàng có tên khoa học là Papilio demoleus Linnaeus.
+ Bướm phượng đen có tên khoa học là Papilio polytes Linnaeus.
+ Bướm phượng lớn có tên khoa học là Papilio memnon Seitz.
Cả 3 loài trên đều thuộc họ Bướm phượng (Papilionidae), bộ Cánh vảy (Lepidoptera).
- Đặc điểm hình thái và sinh học:
+ Bướm phượng vàng: Papilio demoleus Linnaeus
Thành trùng là loài bướm khá lớn, chiều dài thân từ 25 - 35mm, sải cánh rộng từ 8 đến 12cm. Nên cánh màu đen, có nhiều đốm màu vàng tươi, kích thước không đều nhau. Cánh sau không có đuôi, gần gốc trong có một đốm lớn hình bầu dục màu đỏ nâu, phía ngoài đốm này có một quầng màu xanh dương sẫm hay xanh lơ. Thời gian sống của bướm đực từ 3 - 5 ngày. Trong khi đó, thời gian sống của bướm cái từ 5 - 8 ngày và một bướm cái có thể đẻ từ 75 - 120 trứng.
Trứng hình cầu, đường kính khoảng 1mm. Khi mới đẻ trứng màu trắng sữa, khi sắp nở chuyển thành màu nâu xám. Thời gian ủ trứng từ 3 - 7 ngày.
Đối với bướm phượng vàng, sâu mới nở màu nâu sẫm, trên mình có nhiều gai thịt nổi lên xù xì, về sau trên lưng sâu xuất hiện những vệt trắng. Sau lần lột xác thứ 3, mình sau chuyển sang màu xanh vàng hoặc xanh lá cây, phía trên lưng và hai bên hông cơ thể có nhiều vệt và chấm màu nâu hoặc đen. Khi đẫy sức, sâu có thể dài đến 5cm. Loài này còn được gọi là “sấu chó cam”.
Đặc điểm chung của sâu non các loại bướm phượng là đốt ngực thứ nhất tương đối to so với các đốt còn lại. Ngoài ra, ở mặt lưng của đất ngực thứ nhất có một đôi tuyến hội, khi bị đụng đến có thể nhô ra ngoài dưới dạng một đôi râu thịt màu đỏ, hình chữ V. Tuyến này tiết ra mùi hôi để xua đuổi kẻ thù.
Nhộng các loài bướm phượng có hình dáng tương đối đặc biệt: Phần đầu phân làm 2 nhánh như 2 chiếc sừng, phần bụng cong vòng ra phía trước, đồng thời nhô sang hai bên thành 2 gốc. Mình nhộng bám chắc vào cành cây nhờ túm tơ ở mặt bụng và sợi tơ treo vòng ngang lưng. Mình nhộng có nhiều màu sắc, phần lớn màu xanh nhạt, có lúc màu xám hoặc nâu vàng. Nhộng dài từ 25 - 30mm.
Thời gian nhộng khoảng 1 tuần đến 10 ngày.
+ Bướm phượng đen: Papilio polytes Linnaeus
Cánh có đuôi dài, thân có chiều dài từ 25 - 30mm, sải cánh rộng từ 80 - 90mm. Bướm đực màu đen như nhung, mép ngoài cánh trước có 9 chấm màu trắng vàng và giữa cánh sau có 7 chấm màu vàng nhạt xếp thẳng hàng ngang qua cánh. Cuối cùng có 1 đốm tròn phân nửa màu đỏ cam, nửa màu đen.
Nền cánh trước của bướm cái màu xám nâu, chân cánh màu đậm hơn. Trong khi cánh sau có 2 dạng cấu trúc khác nhau:
• Dạng thứ nhất: Cạnh ngoài có 6 đốm hình bán nguyệt, tiếp đến là 1 đốm hình dài màu đỏ cam nằm khoảng giữa cạnh sau. Giữa cánh có 5 đốm màu trắng với 4 đốm hình dài phía dưới và 1 đốm nhỏ hơn ở phía trên.
• Dạng thứ 2: Cạnh ngoài cánh sau có 5 đốm tròn và 1 đốm to hình dài nằm ở khoảng giữa cạnh sau màu cam. Giữa cánh có 5 đốm dài và phía trên có 1 đốm nhỏ, tất cả có màu vàng nhạt, gần như trắng.
Trứng tương tự như trứng bướm phượng vàng.
Sâu non mới nở màu trắng vàng. Sâu non loài này có cơ thể ít xù xì hơn sâu non bướm phượng vàng. Từ tuổi 4 mình sâu có màu xanh lá cây, các vệt trên mặt lưng và hai bên cơ thể ít hơn bướm phượng vàng và có màu nâu.
Nhộng có màu sắc và hình dáng tương tự như nhộng bướm phượng vàng nhưng có thể phân biệt được nhờ các đặc điểm sau: Hai nhánh phía đầu ở nhộng bướm phượng đen kéo dài hơn, phần bụng cong và nhô rộng ra hai bên nhiều hơn loài bướm phượng vàng.
+ Bướm phượng đen lớn: Papilio memnon Linnaeus
Bướm có kích thước to so với 2 loài trên, cánh sau không có đuôi. Bướm đực có cánh trước màu đen, cánh sau màu đen lẫn xanh dương. Bướm cái có cánh trước màu xám nâu đen, chân cánh có một vết đỏ bầm hình tam giác. Cánh sau màu đen ở phần chân cánh, phần ngoài cánh màu vàng hơi trắng với những đường màu đen chạy dọc theo gân ra đến đầu cánh, chia cánh thành những ô dài với 5 đốm tròn to và 2 đốm tròn nhỏ ở ô cuối, tất cả có màu đen.
- Tập quán sinh sống và cách gây hại:
Tập quán sinh sống của các loài bướm phượng đều tương tự nhau. Bướm thường vũ hóa rộ vào sáng sớm. Các hoạt động bắt cặp và đẻ trứng thường diễn ra mạnh nhất vào buổi sáng, từ 8 - 10 giờ. Khi đẻ trứng, bướm cái thường bay lượn trên các chồi non và đẻ rải rác từng cái ở mặt dưới các lá non.
Sâu có tập quán là ăn hết vỏ trứng hoặc lớp da mới vừa lột ra, không để lại dấu vết. Lúc nhỏ sâu chỉ ăn lá non và chỉ gặm khuyết bìa lá. Khi lớn, sâu có thể ăn cả chồi hoặc thân non. Từ tuổi 4, sâu không nằm yên trên mặt lá mà thường ẩn nấp sâu vào các cành lá, khi ăn mới bò ra. Sâu hoạt động chậm chạp và có đặc tính nhả tơ trên bề mặt lá để bám. Khi đẫy sức, sâu nhả tơ treo mình hóa nhộng trên cành cây. Thường phía dưới chỗ sâu đã sinh sống, đuôi nhộng cột dính vào cành bằng một sợi tơ.
Thường xuyên diệt trứng, sâu và nhộng trên cành cam quýt vì chúng dễ phát hiện. Nếu có thể nên sử dụng kiến vàng để diệt chúng vì một số kết quả nghiên cứu cho thấy, kiến vàng hạn chế rất nhiều mật số của loài sâu này cũng như một số loài sâu hại cam quýt khác.